Giáo xứ Tân Thái Sơn  - Giáo Hạt Tân Sơn Nhì - Giáo Phận Sài Gòn - LM chính xứ: Phêrô Lê Hoàng Chương  - LM Phó xứ: Gioan Baotixita Trần Nhật Thanh - Andre Nguyễn Công Thái  -  "KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH." (Ga:15,13) Ave Ma-ri-a - "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." (Lc 11, 28) - Thành Lập Và Quản Trị Trang Web: Giuse Trần Đình Cánh.

Các bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật VI TN Năm B

Các bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật VI TN Năm B

Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhậ
t VI TN – năm B
Lời Chúa:
 Lv 13,1-2.45-46; 1 Cr 1, 10,31-11,1; Mc 1, 40-45
********

MỤC LỤC
1/ Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu chữa một người phong cùi
2/ Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
3/ Chú giải của Noel Quesson: Một Thiên Chúa giấu ẩn
4/ Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux: Chữa người phung hủi
5/ “Sạch” và “dơ” (Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
6/ Hãy được lành! (Cha Mark Link, S.J.)
7/ Bàn tay chữa lành (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
8/ Phục vụ bệnh nhân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9/ Vâng phục, tín thác và tri ân (AM Trần Bình An)
10/ Hậu quả đáng sợ của tội lỗi (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
11/ Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi (Noel Quesson)
12/ Phong cùi
13/ Bệnh phong tâm hồn (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
14/ Tôi muốn, anh hãy lành bệnh (Lm. Phêrô Lê văn Chính)
15/ Lạc quan

 

 

A/ BẢN VĂN

BÀI ĐỌC I (Lv 13, 1-2. 44-46)

Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: “Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.

“Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại”.

BÀI ĐỌC II (1 Cr 10, 31 – 11, 1)

Anh em thân mến, dầu anh em ăn, dầu anh em uống, dầu anh em làm việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Anh em đừng nên cớ cho người Do-thái, dân ngoại hay Hội thánh của Thiên Chúa phải vấp phạm. Như tôi đây, tôi cố làm hài lòng mọi người trong mọi sự, không tìm điều gì lợi ích cho tôi, nhưng tìm điều lợi ích cho nhiều người, để họ được cứu rỗi. Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô.

TIN MỪNG (Mc 1, 40-45)

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: “Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh”. Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.

[Mục Lục]

B/ CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long, ofm: ĐỨC GIÊSU CHỮA MỘT NGƯỜI PHONG HỦI

1/ Ngử cảnh

Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối cùng này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được bệnh phong hủi.

2/ Bố cục

Bản văn này có ba phần:

1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);

2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc. 43-44);

3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).

3/ Vài điểm chú giải

người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã nói đến chứng bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta không nói “chữa lành” nhưng là “được thanh tẩy (làm cho sạch)” khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ trên hai từ Híp-ri nâga‛ (“nó đánh”) và nega‛ (“đòn đánh”; “vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong hủi”) (x. 2 V 15,5; 2 Sb 26,19-20; Is 53,4.8).

Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội của dân.

Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được dành cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người đã lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).

Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong hủi trong tương lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia (x. Mt 11,5)?

Người chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis, partic. aorist của động từsplanchnizomai do từ ta splanchna, lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển động trong lòng”.

- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của một cuộc chữa lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi phạm quy định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong sạch, nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.

- Người nghiêm giọng (“làm gắt”, NTT) (43): Động từ Hy Lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa); “phát tiếng hừ hừ do cơn giận dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng Người vừa làm một việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai, ngược lại với quyết định của Người. Do đó, Người “đuổi” anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của Người. Động từembrimaomai không có từ tương đương trong ngôn ngữ Tây phương (TOB: s’irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away with the stern warning).

- để làm chứng cho người ta biết (“để làm chứng trước mặt họ”, NTT) (44): Có những người cho rằng câu này nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: “pour l’attester au peuple”). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại danh từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều được giải thích là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế, Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.

4/ Ý nghĩa của bản văn

* Chữa lành người phong hủi (40-42)

Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.

* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)

Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.

* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)

Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.

+ Kết luận

Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết thương cảm.

5/ Gợi ý suy niệm

1/ Như người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta được lưu ý: không ép buộc Thiên Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp chúng ta và theo cách chúng ta quy định. Chúng ta cứ bày tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi để Ngài định liệu :”Nếu Ngài muốn”.

2/ “Người phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời khuyên rất tốt về cách cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý muốn của Chúa, y như thể anh không muốn tin vào sự tốt lành của Người. Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh tẩy anh, anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về Chúa, đồng thời khẳng định đức tin của anh… Nếu đức tin yếu, đức tin trước tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó đức tin mới cho thấy tất cả quyền lực của mình là đạt được việc chữa lành tâm hồn và than xác.

Có lẽ Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi bảo: “Người đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ” (Cv 15,9)… Đức tin tinh tuyền, được sống trong tình yêu, được duy trì nhờ sự nhẫn nại, kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách khẳng định mình, cương quyết trong niềm tin tưởng, đầy trọng kính trong lời cầu nguyện và đầy khôn ngoan trong những gì cầu xin, đức tin này chắc chắn trong mọi hoàn cảnh được nghe lời này của Chúa: ‘Tôi muốn’” (Thánh Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển đức).

3/ Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc phục vụ. Như Đức Giêsu, người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng của anh chị em mình, chứ không phải để chứng tỏ bản thân. Người Kitô hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không phải vì thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng của người khác).

4/ Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm.Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay có chung một chủ đề: quan niệm về sự thanh sạch và sự ô uế.

Lv 13: 1-2, 45-46

Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy rằng bệnh phong hủi làm cho con người trở nên ô uế trầm trọng. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi.

1Cr 10: 31-11: 1

Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ cho thấy làm thế nào sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề thanh sạch và ô uế về những lệnh cấm thức ăn, thức uống. Bởi lẽ Chúa Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ.

Mc 1: 40-45

Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giê-su không ngại chạm đến người phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử theo cùng một cách như vậy đối với những tội nhân. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi.

BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 45-46).

Sách Lê-vi là một trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư. Bộ Ngũ Thư cấu tạo nên Luật và theo truyền thống, nguồn gợi hứng của chúng lên đến tận ông Mô-sê.

Sách Lê-vi nầy là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì những tư tế đều phải thuộc chi tộc Lê-vi. Xưa kia, chi tộc Lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau, sau nầy, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy Lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, được gọi các thầy trợ tế như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10: 31-32).

1/ Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội:

Bộ luật tư tế nầy dâng hiến một chương dài cho “luật thanh sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố, làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai.

Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới, đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!” để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh.

2/ Nỗi khốn cùng về phương diện tâm linh:

Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn giáo xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẽ với ý tưởng thánh thiêng. Ở Ít-ra-en, cộng đoàn cốt yếu là một cộng đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng vụ.

Bệnh phong hủi gợi ra không chỉ sự ghê tởm về mặt thể lý; một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy luật đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy đến với thầy tư tế”.

Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, là “đồ bỏ đi”, là “kẻ bị khai trừ”, là người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, Người Tôi Trung của Đức Chúa được mô tả như một người phong hủi, vì Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người:

“Người bị người đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn,
bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới”
 (Is 53: 3).

Đó là thân phận bi thương của những người phong hủi được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da thịt mình, nhưng cả về mặt tinh thần: vì là chứng bệnh truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; và vì là tội lỗi, họ bị loại trừ ra khỏi đời sống phụng vụ và không được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1)

Đoạn trích thư Thánh Phao-lô nầy làm chứng một cuộc cách mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn Thiên Chúa, dù ăn hay uống bất cứ điều gì. Vả lại, không có bất kỳ hành động vô tình nào. Tất cả những gì chúng ta làm là để tôn vinh Thiên Chúa.

1/ Quy luật về thức ăn thức uống:

Sách Lê-vi trình bày nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân Chúa chọn phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không còn bận lòng về vấn đề nầy nữa. Tuy nhiên có một vấn đề khác được đặt ra cho họ nhưng cũng cho những người Ki-tô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt cúng mà lương dân dùng để dâng cúng các thần linh của họ không?

2/ Giải pháp của thánh Phao-lô:

Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi sáng.

“Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật, người Ki tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn và thức uống nào, nên họ có thể gây nên gương xấu. Vì thế, cần phải thận trọng trong khi ăn trong khi uống.

Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này, chúng ta biết rằng thánh nhân thường có thói quen đẩy cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những bận lòng. Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4).

Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh nhân triển khai lời dạy của mình một cách tinh tế như sau: nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em: “Đây là của cúng” thì anh em đừng ăn, để tránh gây gương xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng đừng gây gương xấu cho người ấy.

Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với một bận lòng duy nhất, đó là “cứu độ tha nhân”. Đây là luật vàng của Đức Ái.

TIN MỪNG (Mc 1: 40-45).

Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” đi kèm theo, đặc biệt việc chữa lành bệnh tật. Trong đoạn văn nầy, Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi.

Bài đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người phong hủi bày tỏ tấm lòng nhạy bén của Ngài, đồng thời quyền năng siêu việt ở nơi Ngài.

1/ Vượt qua Lề Luật:

Trước một con người bị xem là đồ ô uế và bị cách ly khỏi đám đông, không ai dám đến gần, Đức Giê-su đã “động lòng thương”, một diễn ngữ Tân Ước được dùng để diễn tả sự đồng cảm sâu sắc dâng lên tận đáy lòng đến nỗi Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn được.

Vả lại, nhiều lần Ngài để lộ nỗi bận lòng của Ngài đối với những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với những người được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9).

Đức Giê-su không ngại đi ngược lại tập tục và quy chế lề luật về người phong hủi bị cách ly khỏi đời sống xã hội và đời sống tâm linh: Ngài giơ tay chạm đến người phong hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra rằng điều làm cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài nhưng từ những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20).

2/ Tuân thủ Lề Luật:

Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống cộng đoàn khi chứng thực rằng anh ta khỏi bệnh và đã chu toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định.

Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo nghiêm khắc: “Coi chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta gặp lại ở nơi Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự cuồng nhiệt của đám đông làm tổn hại đến sứ mạng của Ngài. Tuy nhiên, người phong hủi đã không tuân giữ lệnh im lặng nầy nên “Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế được niềm vui tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ?

3/ Bệnh phong hủi của tâm hồn:

Quả thật, Đức Giê-su đối xử người phong hủi đáng thương này như thế nào, thì Ngài cũng đối xử những người tội lỗi khác cũng như vậy. Ngài không ngại tiếp xúc họ. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ tai tiếng chạm đến mình, và thậm chí Ngài còn đồng bàn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi. Như vậy, Ngài muốn bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội lỗi của chúng ta. Ngài không muốn khai trừ chúng ta, nhưng ngược lại là đàng khác khi Ngài công bố: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9: 12; Mc 2: 17).

Chỉ qua nhân tính của Đức Giê-su, tội nhân mới có thể tiếp xúc với Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson: MỘT THIÊN CHÚA GIẤU ẨN

Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu… và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.

Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết” lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi.

Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.

Anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.

Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những “dấu chỉ” của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là “kêu xin” Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: “Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.

Động lòng thương trước người đó.

Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: “splagknisteis” có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và “orgisteis” có nghĩa là “nổi giận”. Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ “nổi giận” nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai “câu dịch” đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một “phản ứng rất nhân bản”! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là “hiện thực”, đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận … “Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người”. Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính “Thiên Chúa hiện hình cụ thể”. Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước “vấn đề sự dữ”, họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.

“Động lòng thương”. Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng “làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể “hoàn hảo” được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là “Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian “không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn “hữu hạn”, rõ ràng “không phải là Chúa”. Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào “thế gian này”. Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.

Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người “nổi giận”, đã khơi dậy “lòng thương xót” của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một “dấu chỉ” báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự “sẽ được hoàn tất” (Rm 8,18).

Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta

Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến “bàn tay”. Ở đây, đối với một người phong hủi, một người “không ai được sờ động đến”, thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: “Nhơ! Nhơ!”: Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.

Người bảo: “Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh”.

Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một “cử chỉ” và “bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô”.

Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: “Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: “Nếu Ngài muốn điều đó”, nhưng là nếu Ngài muốn”. Và Đức Giêsu cũng không đáp lại: “Tôi muốn điều đó”, mà là “Tôi muốn”. Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ “điều đó”, những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.

Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh

Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một “hình phạt của Thiên Chúa”, Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).

Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là “biểu tượng” của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận” và “lời” của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.

Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động “chữa lành” của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.

Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.

Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: “Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng”). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người “nhu mì”, mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.

Coi chừng, không được nói gì với ai cả.

Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: “không gì hết”, “không với một ai cả”.

Đó là “bí mật Thiên Sai” nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc “giải phóng” con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại .

Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.

Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22).

Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.

Đối với Maccô. “Lời” được công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên “kẻ cứu độ” người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những “nơi hoang vắng”. Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một “Thiên Chúa ẩn giấu”.

[Mục Lục]

Bài 4. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux: CHỮA NGƯỜI PHUNG HỦI

Trình thuật khởi đầu một cách đầy bất ngờ, chẳng xác nhận thời gian lẫn nơi chốn (c. 40a). Đặc biệt động từ “đến” được dùng ở thì hiện tại lịch sử. Chắc chắn Maccô muốn nêu bật giá trị “hiện thực” của biến cố này cho bản văn của ông. Thêm vào đó, ngay nơi bản văn cũng đưa ra cho độc giả một vài vấn nạn. Tại sao Chúa Giêsu lại đuổi thẳng thừng anh chàng vừa được Ngài chữa lành? (c. 43). Tại sao anh chàng phung hủi vừa được chữa lành lại dám bất tuân không giữ lệnh Chúa truyền cho anh ta phải giữ kín miệng? (c. 45). Các nghịch lý này hẳn sẽ tác hại cho sự mạch lạc của bản tường trình có tính trực tiếp như thế nếu chúng không được giải thích đầy đủ trong nhãn quan của một sự cố được đọc lại dưới ánh sáng đức tin. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này.

Người bệnh tiến đến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, tin cậy van xin: anh ta quỳ gối xuống trước mặt Chúa, nài xin Chúa chữa lành nếu Chúa muốn (c. 40b). Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phung hủi là kẻ hoàn toàn bị “khai trừ” khỏi xã hội. Mắc phải một chứng bệnh nặng nề và ô nhiễm như thế, kẻ ấy phải sống ngoài lề cộng đoàn của mình. Ngay từ thời xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi sự đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và loại người mắc bệnh đáng tởm này. Bức chân dung được luật Môsê vẽ ra về loại bệnh nhân này tố cáo sự khai trừ mãnh liệt của Lề Luật như sau: “Một khi mắc chứng bệnh này, kẻ phong hủi phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai xõa xuống, râu mép để dài và phải la lớn: “Ô uế, ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46). Thực thế, trong Kinh Thánh, bệnh hủi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh hãi, gặm nhấm và làm biến dạng hình hài bệnh nhân (đến nỗi thấy kẻ ấy người ta phải che mặt), nó còn là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo. Kẻ mắc bệnh này bị xem như đã phạm một trọng tội nên bị Chúa trừng phạt. Một số giáo sĩ đương thời Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh hủi dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống, giết người, làm chứng gian, ham trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam. Từ thời xửa thời xưa, người phong hủi bị mọi người kể như là một xác chết biết di động. Bị phung hủi là lập tức bị khai trừ, và bị ruồng bỏ như một thây ma đầy “ô uế”, nghĩa là không thể thông giao với Thiên Chúa cũng như với loài người. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành được thứ bệnh này. Ngài đã dùng nó như hình phạt thì chỉ Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó (xem Cuộc đời Myria, em gái Môsê trong Ds 12,1-16).

Thế mà người ta trông thấy Chúa Giêsu đã phản ứng như thế nào trước lời van xin của kẻ phung hủi bị khai trừ khỏi xã hội và cộng đoàn (c.41). Cử chỉ của Chúa Giêsu thật đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa: Ngài dám đưa tay chạm đến kẻ mà không ai dám sờ đến. Và lời Ngài mang uy lực lời nói của Thiên Chúa: Ngài nói và sự việc xảy ra đúng theo lời Ngài (c. 42).

Khi tường thuật lại sự cố này, hẳn Maccô đã chủ ý mang lại cho nó trọn vẹn một trong số các dấu chỉ giúp người ta nhận ra việc khánh thành thời đại Đấng Mêsia (x. Mt 11,1-5, câu trả lời của Chúa Giêsu cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả). Như vậy, Đấng Mêsia, Đấng hồi phục trọn vẹn sức khỏe thể lý và thiêng liêng cho con người, hiện đang có mặt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, người ta lại ngạc nhiên về tiến trình gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bệnh nhân được chữa lành (c. 43-44a). Hành vi của vị đạo sư quả là cứng cỏi. Ngài đuổi anh chàng trước đó bị mắc bệnh phung hủi: động từ trong tiếng Hy Lạp ở đây có nghĩa là “xua đuổi, trục xuất”. Chính Maccô đã dùng động từ này để chỉ việc trục xuất ma quỷ (1,34-39’ 3,15-22; 6,13 v.v…). Sự thô bạo của Chúa Giêsu đi kèm theo mệnh lệnh nghiêm khắc truyền giữ kín miệng, nghĩa là truyền anh ta phải giữ “Bí mật của Đấng Thiên Sai”. Vị Đạo Sư không muốn người ta hiểu sai ý nghĩa sứ mệnh của Ngài. Ngài không phải là gã phù thủy mà họ mong ước đến để tiêu hủy mọi sự dữ trên trái đất. Họ chỉ có thể thực sự hiểu được bản thể và sứ mệnh sâu sắc của Ngài dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài.

Trình thuật tiếp tục với lời Chúa Giêsu yêu cầu người trước đây bị phung hủi: “Hãy đi trình diện tư tế…” (c. 44b). Khi sai anh ta đến trình diện thầy tư tế, Chúa Giêsu muốn bảo đảm cho anh ta được tái hội nhập vào cộng đoàn tôn giáo. Chính thầy tư tế là người chính thức được đặc cách để chuẩn nhận việc anh ta được lành bệnh (Lv 14,1-9 và tiếp theo). Chu toàn nghi thức như thế trước các vị đại diện dân chúng không khác nào đưa ra “bằng chứng” cho dân Do Thái biết rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất niềm mong đợi lâu dài về Đấng Mêsia. Từ đó họ phải kết luận ra rằng thời gian cứu độ đã đến.

Tuy nhiên đây quả là điều làm chúng ta ngạc nhiên: Anh chàng phung hủi đã vi phạm lệnh Chúa truyền phải nín lặng về trường hợp khỏi bệnh của anh ta (c. 45a); Anh ta vẫn cứ “công bố” tin này ra; đây chính là động từ được dùng để diễn tả việc công bố Phúc âm. Rõ ràng ở đây Maccô đã “ nhảy qua” thời đại Chúa Giêsu để đặt các độc giả của ông vào “hiện thực tính”. Người từng bị phung hủi trước kia giờ đã trở thành một loại thừa sai loan báo Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại thì “Bí mật Mêsia” không cần giữ kín nữa. Giờ đây, sau khi được các biến cố cứu độ soi sáng, theo gương anh chàng phung hủi được Chúa Giêsu chữa lành, các độc giả được mời gọi loan báo sứ điệp giải phóng vui mừng của Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, khi kết thúc trình thuật này, Maccô đã trở về lại với thời đại Chúa Giêsu. Vì hành vi cứu độ này cũng như vì bị dân chúng đồn ầm lên, vị Đạo Sư bó buộc phải lẩn trốn đám đông đang từ khắp nơi tuôn đến với Ngài (c. 45b). Lúc khởi đầu câu chuyện là một bệnh nhân đơn độc bạo Gioan tiến đến gần Chúa Giêsu. Vào đoạn kết là một đoàn người đông đúc tuôn đến gần vị lương y. Đối với đám đông này, cũng như đối với độc giả, câu hỏi được nêu lên như sau: “Người này là ai mà có thể đem lại vị trí cũ cho những kẻ bị khai trừ, giúp họ thông hiệp với Thiên Chúa và với cộng đồng anh em bè bạn của họ?”.

[Mục Lục]

Bài 5. “Sạch” và “dơ”

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

I/ Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến,

Trong cuộc sống chung với mọi người, chúng ta nhận thấy có một số người bị người khác khinh bỉ lánh xa; có khi chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao? Lời Chúa hôm nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và xin Chúa giúp chúng ta sống theo lời Ngài dạy.

II/ Gợi ý sám hối

- Tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành tâm sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.

- Nhiều lần chúng ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu chuyện khiếm nhã.

- Chúng ta cũng làm nhơ uế trái tim mình do cách sống ích kỷ và giận hờn ganh ghét.

III/ Lời Chúa

1/ Bài đọc I (Lv 13, 1-2. 45-46)

Ðoạn này là một phần của sách Lêvi được các chuyên viên gọi là “Luật về sự tinh sạch”. Ðoạn này đề cập riêng về bệnh cùi. Nhưng quan niệm về “bệnh cùi” không giống với quan niệm ngày nay:

- Tất cả những hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu hoặc bóng láng) đều bị gọi là “cùi”. Người ta còn nghĩ rằng bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc những người mắc bệnh ấy phải ở riêng.

- Hơn nữa, người ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn giáo: trong quan niệm chung rằng bệnh tật là hình phạt của tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó cho kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu bị cùi phải đến trình diện với tư tế, và sau này “nếu” khỏi bệnh thì cũng phải được tư tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là một chữ “nếu” to tướng, vì người ta đều coi cùi là một chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa ra tay cứu chữa.

Vì vậy, người nào cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và Ðức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền đặc biệt do Thiên Chúa ban.

2/ Ðáp ca (Tv 31)

Ca tụng sự tha thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của người được tha thứ.

3/ Tin Mừng (Mc 1, 40-45)

Như đã nói trong phần giải thích bài đọc I, người Do Thái coi bệnh cùi là a/ chứng nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi; b/ chứng bệnh rất hay lây; c/ có liên hệ đến tội lỗi.

Người cùi trong bài Tin Mừng này nói với Ðức Giêsu “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Ðiều này chứng tỏ anh tin rằng Ðức Giêsu là người của Thiên Chúa.

Ðức Giêsu đưa tay đặt trên người ấy: chứng tỏ Ngài không sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê tởm kẻ mắc bệnh cùi.

Ngài chữa bệnh một cách rất nhanh chóng và dễ dàng: chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của Thiên Chúa.

4/ Bài đọc II (1 Cr 10, 31–11, 1)

Ðoạn thư này tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng chung một vấn đề, đó là “sạch và dơ”. Người Do Thái thời thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn “sạch” và thức ăn “dơ”. Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó. Ðiều quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay dơ, mà là dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.

IV/ Gợi ý giảng

1/ Thứ bệnh “cùi” nguy hiểm hơn

Những kiến thức y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.

Nhưng chúng ta phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả: Ðó là một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế, lại có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi người xa lánh.

Tội “cùi” ấy là gì? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan truyền những ý nghĩ xấu ấy.

Ebba de Pauli trong quyển “Vị ẩn sĩ” đã mô tả một người cùi như thế: Ðó là một bà trung lưu và có thể nói là “đạo đức”. Bà không phải bận bịu với việc sinh nhai, bà có nhiều giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa xa thì đã lẫn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ. Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ kết luận: 
– Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn độc!
– Nhưng sao họ coi tôi là rắn độc?
– Vì trong đầu óc bà đầy những ý tưởng độc hại, như nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan… Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn xuống, cuộc sống mình buồn thảm hơn. 
– Vậy xin ngài chỉ cho tôi phải làm sao. 
Vị Ẩn Sĩ khuyên bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao tiếp: từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành; khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn. 
Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.

2/ Những “con hủi”

Hoàn cảnh đáng thương của người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay không phải vì anh mắc một chứng bệnh ô uế và hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh không đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ anh như thế nên ghê tởm và xa lánh anh.

Có nhiều người tuy không “cùi” nhưng vẫn bị coi là “con hủi” do bị mọi người khinh tởm tránh xa.

Nhưng Ðức Giêsu thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi với những “con hủi” ấy, chẳng hạn những người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp v.v…

3/ Nỗi khổ bị xua đuổi

Bệnh cùi là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi. Có thể nói, đau khổ lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn phẩm giá gì nữa, thậm chí nó còn khiến người ta nổi loạn.

Trẻ con mà bị cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu tất cả mọi đau khổ khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất không phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó đang mắc phải, mà là bị người khác xa lánh.

Người cùi đến với Ðức Giêsu trong bài Tin Mừng này là một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được sống chung với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho người khác chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên anh còn thêm mặc cảm mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.

Ðiểm hay trong chuyện này không phải là việc Ðức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách Ngài đối xử với anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Ðức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh.

Khi ta xua đuổi ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta có thể xua đuổi người khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v. v. Ðó là những mũi kim đâm rất nhỏ nhưng gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor Mc Carthy)

4/ Bệnh phong cùi

Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: “Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy”.

Thế mà hai năm sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.

Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.

Thi đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.

Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.

Ðối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên “ô uế” để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Ðức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: “Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch” (Mc. 1, 40).

Thấy lòng tin của anh, Ðức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh” (Mc. 1, 41). Chạm đến người phong cùi, Ðức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Ðức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.

Carré có nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông“. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.

Vì thế Ðức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ”.

Bí quyết trở nên hùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: “In God we trust” (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salêsiô nói: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.

Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người.

Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

5/ Chạm vào

Nhiều người chúng ta sợ chạm vào người khác. Thà cho người ăn mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm tới mình. Ðức Giêsu thì khác. Ngài không đứng xa, không ngại chạm vào. Ngài chạm vào những người cùi, những người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người chết. Những cái chạm thân ái làm cho lòng người đang lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu được vui mừng sung sướng.

Lạy Chúa, xin cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu dàng. (Flor Mc Carthy)

6/ Chúa chạm vào

Người phong cùi nói với Ðức Giêsu: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Ðức Giêsu chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo “Tôi muốn, anh hãy được sạch”

Mẫu đối thoại ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng:

- Xét về mặt thiêng liêng thì ai cũng đều “cùi” vì ai cũng có tội.

- “Nếu Ngài muốn”: Ðức Giêsu có muốn cho chúng ta hết “cùi” thiêng liêng không? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì Ðức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi cho loài người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi: “Tôi muốn”

- Người cùi trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Ðức Giêsu đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay không chỉ được Ðức Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ thể chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.

7/ Ý nghĩa việc làm của Ðức Giêsu

Các sách Tin Mừng trình bày Ðức Giêsu luôn làm hai việc: chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc này không riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói cách khác, Ðức Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ trợ cho việc rao giảng. Ta cũng có thể nói: chữa bệnh là một cách rao giảng Tin Mừng.

Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng. Chẳng những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ loan báo Tin Mừng: “Ði khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó… và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người”.

V/ Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã không ngại đụng chạm đến người cùi để chữa lành và tỏ lòng yêu thương họ. Chúng ta xin Ðức Giêsu thương chữa lành cho mọi bệnh tật phần hồn và phần xác cho chúng ta:

1/ Trong Hội thánh có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng là sống trong tình trạng tội nặng / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ sớm chạy đến tòa cáo giải để được lành sạch.

2/ Trên thế giới có đủ các thứ bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền biết quan tâm để mọi người dân được chữa bệnh cả phần xác lẫn phần hồn.

3/ Ngày nay ở khắp nơi có nhiều người mắc những bệnh hiểm nghèo không thể chữa được như ung thư, sida / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ luôn được nhiều người yêu thương và ủi an.

4/ Trong xứ đạo chúng ta có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng mà không ý thức và không muốn chữa lành / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ gặp dịp để ăn năn sám hối và chạy đến với Chúa để được chữa lành.

Chủ tế : Lạy Ðức Giêsu, Chúa luôn luôn muốn chữa lành mọi bệnh tật phần hồn phần xác cho chúng con, Xin cho chúng con biết tin tưởng và tìm đến với Chúa, để Chúa chữa lành cho chúng con. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI/ Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Như những đứa con bệnh hoạn tật nguyền vì những chứng bệnh phần hồn, phần xác, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh sau đây: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”

- Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ làm cho tâm hồn chúng con ra nhơ uế, và sự dữ tách chúng con ra khỏi nếp sống cộng đoàn yêu thương, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”.

VII/ Giải tán

Nhờ linh dược của Thánh Thể, mọi bệnh tật nhơ uế trong tâm hồn chúng ta đã được sạch. Chúng ta hãy ra về và giúp cho anh chị em chúng ta cũng được lành sạch như vậy.

[Mục Lục]

Bài 6. HÃY ĐƯỢC LÀNH!

Cha Mark Link, S.J.

“Dù tình trạng bi đát đến mức nào, Chúa Giêsu vẫn có thể hoán chuyển thành tốt hơn, miễn là ta biết tin vào Ngài”

Năm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người anh, Peter Cropper được mời đến Phần Lan trình diễn một buổi hoà nhạc đặc biệt. Vì lòng ngưỡng mộ biệt tài của Peter, Viện Hàn Lâm âm nhạc hoàng gia đã biếu ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử dụng trong các buổi hoà nhạc. Chiếc nhạc cụ quí hiếm này mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivari. Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du dương. Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn ác mộng khinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trợt chân ngã xuống, làm chiếc vĩ cầm bị vỡ tan thành từng mảnh! thế là Peter trở về Luân Đôn tâm trí khủng hoảng cực độ. Một người chuyên sửa đàn dày dạn Kinh nghiệm tên là Charler Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi chiếc đàn cho Peter. Charler miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp ráp được toàn bộ các mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước. Và giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc vĩ cầm cho Peter Người nhạc sĩ vĩ cầm vô cùng hồi hộp cầm chiếc đàn lên bắt đầu chơi nhạc… Tất cả mọi người có mặt ở đấy không dám tin vào tai mình, bởi vì chẳng những âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ nữa!

Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi trình diễn vòng quanh thế giới. Và hằng đêm, chiếc vĩ cầm mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đó đã mang lại cho Crroper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ đám thính giả.

Câu chuyện về chiếc vĩ cầm trên là một hỉnh ảnh tuyệt hảo diễn ý những gì đã xảy ra cho người bị phong cùi trong bài Phúc Âm hôm nay. Thời xưa, không hình ảnh nào ghê tởm bằng hình ảnh người bệnh cùi. Ai ai cũng sợ bị anh ta lây bệnh. Đời sống của người bệnh cùi chẳng khác gì cuộc sống địa ngục. Người khác lấy làm gớm ghiếc anh ta đã dành, mà chính anh ta cũng kinh tởm chính mình nữa. Thánh vịnh 31 đã mô tả tình trạng thê thảm của anh như sau; “Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi, trông thấy tôi ngoài đường là họ lánh xa… Tôi chả khác nào đồ vật phế thải” (Tv 31: 11-12). Thế mà đối với người phung cùi bị đát như vậy, Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài chạm vào và chữa cho anh ta lành bệnh.

Câu chuyện người phung cùi và câu chuyện chiếc vĩ cầm chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với tất cả chúng ta. Chúng cho ta thấy những điều vẫn thường xuyên xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hạn một biến cố cực kỳ bi đát nào đó như; một người thân mình qua đời, bạn bè phản bội mình, tại nạn xẩy tới làm con mình tàn tật, cha mình mất sở làm, mẹ mình nghiện rượu… khi sự bất hạnh ấy chụp lên đầu chúng ta, lòng chúng ta đầy đớn đau, lo lắng, giống như người bệnh cùi lúc bị vướng bệnh, chúng ta cảm thấy cõi lòng tan nát, và giống như Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm, chúng ta cũng bị rơi vào tâm trạng hết sức khủng hoảng.

Vậy hai câu chuyện trên dạy chúng ta điều gì khi lâm phải những hoàn cảnh bi đát tương tự như thế? Chúng cho ta thấy không có hoàn cảnh bi đát nào khủng khiếp đến mức ta không thể vượt qua được. Không một tai hoạ nào tàn khốc đến mức không thể phục hồi được. Dầu cho rủi ro tàn phá đến mức nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhặt lên những mãnh vụn và bắt đầu khiến tạo lại thành một hình dạng mới. Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng đời mình kể như vĩnh viễn tàn lụi, hư hỏng, chúng ta chỉ cần quay nhìn về Chúa Giêsu, Ngài có thể chữa lành cuộc đời tan vỡ chúng ta, giống như người sửa đàn tài hoa đã sửa chữa chiếc vĩ cầm bể nát nọ. Và Chúa Giêsu còn làm được hơn thế. Ngài có thể biến một cuộc đời tan nát thành tốt hơn, đẹp hơn trước đó nữa.

Cách đây nhiều năm một vụ nổ đã làm một chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở chân đến nỗi các bác sĩ nghĩ rằng cần phải cưa chân đi. Một người bạn nói với mẹ cậu bé: “Chị nên chuẩn bị đón nhận điều này, thằng Glenn của chị sắp sửa thành kẻ tàn phế suốt đời đấy!” thế mà hai năm sau, cậu bé đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những Glenn đi bộ được, cậu ta còn chạy được nữa, dù chạy không nhanh lắm, những dầu sao cậu ta vẫn chạy được, cuối cùng, Glenn vào được đại học. Hoạt động ngoại khóa của cậu là môn chạy đua, giờ đây cậu chạy không phải để chứng tỏ cho thấy thiên hạ đã lầm, mà chẳng là vì cậu có năng khiếu về môn này. Các kỷ lục liên đại học chẳng bao lâu bị đôi chân thoăn thoắt của cậu phá vỡ. Thế rồi kỳ Đại hội Ôlympic Berlin đã đến. Glenn chẳng những được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này. Năm sau, Glenn Cunningham lại phá vỡ kỷ lục môn chạy dưới vòm có mái che.

Cậu bé mà người ta từng cho là sẽ trở thành một phế nhân, nay đã trở thành vận động viên chạy chay nhanh nhất thế giới. Cậu bé mà cuộc đời tan vỡ vì vụ nổ kinh khiếp đã trở nên mạnh mẽ hơn cả khi biến cố bi đát ấy chưa xảy ra.

Thánh Phaolô tóm tắt sứ điệp chứa đựng trong các bài đọc hôm nay qua những lời thơ gởi tín hữu Corintô như sau: “Chúng tôi, thường bị âu sầu nhưng không bị đè bẹp, thỉnh thoảng bị rơi vào ngờ vực nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Và dầu nhiều lần bị ngược đãi, nhưng chúng tôi vẫn không bị tiêu diệt… vì lý do này, chúng tôi chẳng bao giờ ngã lòng. ” (2 Cr 4: 8-9, 16)

Và trong thư gởi tín hữu Roma thánh Phaolô có nói; “Chúng tôi biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp cho những kẻ yêu mến Ngài” (Rm 8:28)

Đây chính là “Tin Mừng” ẩn chứa trong các bài đọc Thánh Kinh hôm nay. Những bài đọc này dạy ta biết rằng dù ta có gặp tai nạn thảm khốc đến mức nào, chúng ta cũng vẫn có thể được chữa lành- giống như trường hợp chiếc vĩ cầm quí giá nọ. Những bài đọc dạy ta rằng bất cứ bệnh tật nào dù thê lương đến đâu xảy đến cho chúng ta như bệnh cùi chẳng hạn, chúng ta vẫn có thể được chữa lành dù sự kiện bi đát nào ụp xuống trên ta giống trường hợp xảy đến cho Glenn, chúng ta cũng vẫn có thể hoàn toàn phục hồi như cậu ta. Những bài đọc còn dạy chúng ta thêm điều này. Dù Chúa Giêsu có thể không chọn phương cách phục hồi toàn vẹn đời sống cho chúng ta, Ngài vẫn có thể dùng nghịch cảnh để biến đổi chúng ta trở nên tốt đẹp và có giá trị hơn trước.

Chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện được tìm thấy trong túi một chiến binh tử trận.

Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm nên những vịêc vĩ đại, thế mà Ngài lại bắt tôi yếu đuối để tôi có thể làm những điều tốt đẹp hơn. Tôi cầu xin được giàu có để sống hạnh phúc, thế mà ngài lại để tôi nghèo khổ hầu tôi được khôn ngoan hơn… Tôi cầu xin nắm được quyền cao chức trọng để được mọi người tán dương, thế mà tôi vẫn phải chịu cảnh thấp hèn để tôi cảm thấy cần đến Chúa…

Tôi chẳng nhận được điều gì tôi cầu xin, nhưng tôi lại nhận được mọi điều tôi hy vọng. Mọi lời cầu xin không thốt ra lời lại được đáp trả hầu như ngoài dự tính của tôi. Và như thế tôi được liệt vào số những người được Chúa chúc phúc nhiều nhất“…

[Mục Lục]

Bài 7. BÀN TAY CHỮA LÀNH

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I/ DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Chỉ cần liếc qua bất cứ một tờ báo nào (báo giấy, báo mạng) chúng ta sẽ nhận ra ngay có những bàn tay làm nên những kỳ công, nhưng cũng có những bàn tay gây ra những tội tầy đình; có những bàn tay sạch thì cũng có những bàn tay nhơ nhớp, bẩn thỉu; có những bàn tay xây dựng, kiến thiết thì cũng có những bàn tay phá hoại; có những bàn tay cứu sống thì cũng có những bàn tay giết hại; có những bàn tay chữa lành thì cũng có những bàn tay gây nên thương tổn cho tâm hồn hay thân xác người khác.

Đọc các bài Thánh Kinh hôm nay chúng ta sẽ thấy bàn tay của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô là BÀN TAY CHỮA LÀNH. Điều đó đem lại cho chúng ta niềm vui lớn lao vì chúng ta sẽ được bàn tay ấy đụng đến và chữa lành. Điều đó cũng thúc bách để chúng ta nối dài bàn tay chữa lành của Thiên Chúa để xoa dịu và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền và khổ đau của những người xung quanh!

II/ LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

1/ Trong bài đọc 1 (Lv 13,1-2.45-46): Người mắc bệnh phong phải ở riêng ra ngoài trại

2/ Trong bài đọc 2 (1 Cr 10,31 – 11,1): Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.

3/ Trong bài Tin Mừng (Mc 1,40-45): Chứng phong hủi biến khỏi anh và anh được sạch.

III/ KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

1/ Chân dung của Thiên Chúa.

a/ Trong đoạn sách Lv 13,1-2.44-46 là những quy định mà Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê để ông phổ biến cho dân chúng tuân giữ: Người mắc bệnh phong bị coi là ô uế nên phải ở riêng một nơi, tách xa khỏi cộng đồng. Đi đâu người ấy cũng phải hô lớn tiếng (là mình ô uế) để mọi người tránh xa. Thật chẳng có gì đau đớn và tủi nhục cho bằng! Nếu người mắc bệnh phong được khỏi bệnh, thì người ấy phải tìm đến trình diện với tư tế để được vị này nhìn nhận là sạch bệnh và cho phép tái nhập vào cộng đồng. Hiển nhiên là trước mặt Thiên Chúa thì người bệnh phong chẳng ô uế hơn người khác và chẳng ô uế chỉ vì mắc bệnh phong là thứ bệnh vế thể lý. Điều làm cho con người thành ô uế trước mặt Thiên Chúa là tội lỗi chứ không phải là bệnh này bệnh nọ. Chúng ta có thể hiểu mệnh lệnh của Thiên Chúa ở đây có ý nghĩa “ngừa bệnh” cho cộng đồng và ám chỉ những người ô uế thực sự (là tội nhân) cần phải tách ra khỏi cộng đồng.

b/ Trong đoạn thư 1 Cr 10,31 – 11,1 Thánh Phao-lô không đề cập trực tiếp đến Thiên Chúa, nhưng qua các lời khuyên của ngài, chúng ta hình dung ra được Thiên Chúa là Đấng nào, có vị trí ra sao trong cuộc sống của Phao-lô và các tín hữu.

Trước hết Thiên Chúa của Phao-lô là Đấng đáng được tôn vinh bằng/qua mọi việc làm của người tín hữu. Kế đến Thiên Chúa của Phao-lô là Đấng làm cho mọi người có giá trị và đáng được người khác trân trọng và phục vụ. Sau cùng Thiên Chúa của Phao-lô là mẫu mực mà Phao-lô và mọi tín hữu (phải) noi gương bắt chước.

Nếu nối kết bài Thánh Thư này với bài Phúc Âm thì chúng ta có thể nói một cách cụ thể là Thánh Phao-lô đã noi gương bắt chước Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết mọi người. Thánh Phao-lô đã bắt chước Chúa Giê-su Con-Một-Thiên-Chúa-xuống-thế-làm-người là Đấng chạnh lòng thương người mắc bệnh phong khốn khổ. Người không chỉ chạnh lòng thương mà Người còn ra tay cứu vớt, còn đụng tay tới người phong mà không sợ bị lây cái ô uế. Thánh Phao-lô đã bắt chước Chúa Giê-su là Đấng không tìm lợi ích hay vinh danh riêng cho mình mà chỉ tìm lợi ích hay vinh danh cho con người, nhất là cho những người bị khinh chê hay bị quên lãng trong xã hội. Vậy thì các tín hữu – trong đó có chúng ta – cũng hãy noi gương bắt chước Phao-lô mà trở nên giống Thiên Chúa, giống Chúa Giê-su Ki-tô!

c/ Thiên Chúa mà Thánh Mác-cô muốn giới thiệu với chúng ta trong đoạn Mc 1,40-45 là Đức Giê-su Na-da-rét với quyền năng đặc biệt là chữa lành bệnh tật của con người, kể cả những bệnh nan y (theo trình độ y tế thời bấy giờ) như bệnh phong. Đức Giê-su chỉ cần muốn người bệnh được lành là người ấy được khỏi. Nhưng Đức Giê-su đã có một cử chỉ hết sức dễ thương là đụng tay đến người bệnh phong. Cử chỉ này chẳng ai dám làm vì ai nấy đều sợ hãi, kinh tởm và tránh xa người bệnh.

Nhưng không chỉ có thế. Thánh Mác-cô muốn cho chúng ta nhìn sâu vào tâm hồn của Đức Giê-su để thấy tấm lòng của Người nhạy bén và rung cảm trước nỗi khổ của người bệnh như thế nào. Người bệnh phong vừa khổ vừa nhục cầu cứu Chúa đã khiến Chúa chạnh lòng thương và chạm tay vào anh để chữa lành anh.

Hơn nữa chúng ta còn thấy Chúa Giê-su là người tuân giữ những quy định của lể luật Mô-sê khi bảo người bệnh phong trình diện tư tế…. để được nhìn nhận là đã được khỏi bệnh (sạch) và được tái nhập vào cộng đồng con cái nhà Ít-ra-en.

2/ Sứ điệp của Lời Chúa.

Sứ điệp của Lời Chúa dành cho chúng ta hôm nay gồm 2 ý:

* Ý thứ nhất là dù yếu đuối, u mê, tội lỗi chúng ta hãy để cho bàn tay chữa lành của Thiên Chúa, của Chúa Giê-su Ki-tô đụng đến chúng ta. Chắc chắn chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ, thông sáng và thanh sạch.

* Ý thứ hai là chúng ta hãy học cùng Thánh Phao-lô mà noi gương bắt chước Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô mà yêu thương và cứu chữa những người đang đau khổ về tinh thần cũng như về thể xác ở chung quanh, trong cộng đồng chúng ta.

IV/ SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY

1/ Sống với Thiên Chúa là Đấng quyền năng và giầu lòng xót thương; ngài đã chạm tay vào những con người bệnh hoạn, tật nguyền, đau khổ để chữa lành họ.

2/ Thực thi sứ điệp Lời Chúa

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa Chúa nhật VI Thường Niên Năm B này, chúng ta cần tiến hành những bước như sau:

- Trước hết, trước mặt Chúa và trước lương tâm mình, chúng ta tự hỏi:

* Trong tâm hồn và cuộc sống của riêng tôi, còn có những ngõ ngách nào tăm tối, nhớp nhơ cần được bàn tay chữa lành của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô đụng vào để tôi được hoàn toàn lành mạnh?

* Chung quanh tôi, bên cạnh tôi hiện nay, ai là người đáng được tôi yêu thương, chăm sóc chữa lành? Phải chăng đó là những bệnh nhân HIV-AIDS? Là những phụ nữ lỡ đường lạc lối? Là các cô gái mang thai mà không muốn giữ con? Là các cháu sơ sinh bị cha mẹ từ chối? Là các ông bà già không ai chăm sóc yêu thương? Là những anh chị em từ các tỉnh và nông thôn chạy về thành phố để lao động kiếm sống? Là chính người nào đó trong gia đình tôi?

* Trong giáo phận, giáo xứ, cộng đồng, hội đoàn tông đồ của tôi hiện nay có những công việc nào mà tôi coi thường và trốn tránh không muốn đụng tay vào, trong khi đáng lẽ ra tôi phải vén tay áo và nhúng tay đảm nhận những công việc ấy cho giáo phận, giáo xứ, cộng đồng, hội đoàn tông đồ lành mạnh và phát triển hơn nữa?

- Sau khi xác định được ngõ ngách nào còn tăm tối, nhớp nhơ trong tâm hồn và cuộc sống của mình, chúng ta hãy để cho Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô đụng tay chữa lành chúng ta! Sau khi đã xác định được đối tượng cần được chăm sóc và công việc cần được làm rồi, chúng ta hãy hành động như Chúa Giê-su Ki-tô của chúng ta!

V/ CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

1/ «Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.» Lạy Thiên Chúa là Đấng Toàn Trí Toàn Năng và lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng chạnh lòng thương những con người khốn khổ, xin Chúa hãy dơ tay chạm đến những thân xác và tâm hồn tan nát vì đau khổ, bất công và tủi nhục để chữa lành họ.

X/ Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ/ Xin Chúa nhận lời chúng con.

2/ «Đức Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!» Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con xin Cha ban cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ nam nữ, một tấm lòng yêu thương con người, để các ngài dấn thân cứu giúp và chữa lành những người bệnh hoạn, tật nguyền và đau khổ xác hồn.

3/ «Thưa anh em, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.» Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con xin dâng lời cầu xin Cha ban ơn trợ giúp mọi giáo hữu thuộc cộng đoàn giáo xứ chúng con, nhất là những người tham dự Thánh Lễ này, để họ biết làm vinh danh Cha trong mọi công việc lớn nhỏ.

4/ «Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cầu xin Cha cho tất cả các Ki-tô hữu dấn thân trên cánh đồng truyền giáo, để ai nấy biết noi gương bắt chước Chúa Giê-su Ki-tô như Thánh Phao-lô Tông Đồ.

[Mục Lục]

Bài 8. PHỤC VỤ BỆNH NHÂN

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Mở đầu Sứ điệp ngày Thế Giới các bệnh nhân 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ngỏ lời với các bệnh nhân và với những người phục vụ: “Tất cả anh chị em đang mang gánh nặng bệnh tật và qua nhiều cách thức khác nhau, anh chị em đang kết hiệp với Chúa Kitô chịu đau khổ; cũng như với anh chị em là những người chuyên nghiệp và những người thiện nguyện trong lãnh vực y tế”.

Chủ đề Sứ điệp trích dẫn từ câu nói của sách Ông Gióp: “Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15). Ông Gióp phục vụ những người túng thiếu. Ông Gióp có uy tín và được các kỳ lão trong thành kính nể. Uy tín được biểu lộ trong việc phục vụ người nghèo và săn sóc kẻ mồ côi, người góa bụa.(Số 2).

Đức Thánh Cha đề cao những chứng nhân phục vụ bệnh nhân. Ngài gọi “họ là ‘đôi mắt cho người mù’ và là ‘đôi chân của người què!’, họ là những người gần gũi các bệnh nhân đang cần được giúp đỡ liên tục, giúp đỡ để tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống. Việc phục vụ bệnh nhân trong thời gian dài nên vất vả và nặng nề. Đó là một đại lộ để thánh hóa!”. Ngài nói rằng: “Thời gian trải qua cạnh người bệnh là một thời gian thánh. Là chúc tụng Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta được đồng hình dạng với Con của Ngài, Đấng đã không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người” (Số 3).

Ngày Chúa nhật 08.02.2015, như thường lệ, Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin vào lúc 12giờ trưa trước sự hiện diện của vài chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, Ngài nhắn nhủ mọi người hãy quan tâm chăm sóc những ai yếu đau bệnh tật vì họ chính là thân mình của Đức Kitô. Quan tâm đến một người yếu đau, đón nhận người đó, phục vụ người đó là phục vụ Đức Kitô: người yếu đau là thịt của Đức Kitô (RV).

Những ai phục vụ bệnh nhân, hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ đã luôn gần gũi, thăm viếng và chữa lành các bệnh nhân.

Nhắc đến sự quan tâm của Đức Giêsu đối với người bệnh tật, Đức Thánh Cha nói: “Ngự đến trần gian để loan báo và hiện thực hóa sự cứu độ cho tất cả mọi người, Đức Giêsu đã bày tỏ một sự ưu ái đặc biệt đối với những ai đang bị tổn thương nơi thể xác cũng như tinh thần: những người nghèo khổ, các tội nhân, những người bị quỷ ám, những ai yếu đau, và cả những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Như thế, Ngài tự mạc khải chính mình như lương y của tất cả các linh hồn và mọi thể xác, như người Samaritanô nhân hậu vậy”. Mời gọi phản tỉnh về ý nghĩa của việc chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu, Đức Thánh Cha nói: “Thực tại của việc chữa lành các bệnh tật của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phản tỉnh về ý nghĩa và giá trị của bệnh tật. Đây cũng là điều mà Ngày Quốc tế bệnh nhật-vốn sẽ được cử hành vào ngày thứ tư tuần tới, 11.02, dịp lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria Lộ Đức-cũng tái kêu gọi chúng ta” (RV).

Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại: “Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt và Người đã chữa họ.” (Mt 4, 24); “Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại…Người giơ tay đụng vào anh và bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.” (Mt 8, 1-3); “Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền.” (Mt 9, 35)…

Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không chỉ vì sự dơ bẩn “ô uế theo luật Do thái”, hay lây nhiễm, mà còn bị xa lánh như xa lánh kẻ tội lỗi.

Trong Đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng. Họ bị xua đuổi vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu phải kêu lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà tránh xa. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như người mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong.

Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà coi như đã chết.

Tin Mừng Chúa Nhật VI kể câu chuyện: Chúa Giêsu đã vượt qua những biên giới cấm kỵ khi đến gần người bệnh phong. Người còn đưa tay chạm vào thân mình lỡ loét ấy. Lòng thương yêu đã khiến Chúa Giêsu làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu đã bất chấp những điều được coi là cấm kỵ của Đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Chúa Giêsu giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay, anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ.

Khi chữa khỏi bệnh phong, đồng thời Chúa Giêsu cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn bao năm tháng qua. Khi chạm đến thân thể anh thì Người cũng chạm đến tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh, nay qua Chúa Giêsu anh cảm thấy mọi người gần gũi thân thương. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt, nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi, nay anh cảm thấy đựoc yêu thương vỗ về.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với Thầy Cả theo luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra bên lề xã hội, nay anh được đón nhận anh trở lại với xã hội loài người. Nhân phẩm được phục hồi, danh dự được tôn trọng. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người như mọi người.

Chúa Giêsu đã chữa lành thể xác và tâm hồn của người bệnh phong. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ của anh đã chạm đến lòng thương xót của Chúa. Phép lạ phát sinh từ lòng tin của bệnh nhân và từ ý muốn đầy quyền năng của Chúa Giêsu.

Có một môn đệ theo gương Thầy Chí Thánh đã đến ở giữa người cùi, cùng sống và đã chết giữa họ. Đó là Cha Đamiên “Tông Đồ người hủi”. Ngài đã được Giáo Hội phong Thánh. Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Hồng Y FX.Nguyễn Văn Thuận đã kể chuyện cuộc đời Cha Đamien.

Molokai, quần đảo xa xăm ấy nằm cô đơn giữa lòng Thái Bình Dương mênh mông. Trên đảo toàn là người hủi: cụt tay, đứt chân, mắt đui, môi lở, răng rụng… Một hôm, Đức Giám Mục đặc trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các Linh Mục ở Âu Châu tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một Linh Mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh hăng hái đáp lời. Đó là Cha Đamien, người về sau được thêm biệt danh: “Tông Đồ người hủi”.

Chiều hôm đó, trong Nhà Thờ ở đảo Molokai đông nghẹt những người hủi da ngăm đen với mùi hôi tanh nồng nặc, Đức Giám Mục đứng trên Bàn Thờ quay xuống giới thiệu với Giáo Dân: “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một Linh Mục đến cùng các con, thì đây, cha Đamien, một Linh Mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết. Các con có sung sướng không ?”

Cả Nhà Thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu tý nào. Rồi họ từ từ tiến lên Cung Thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Damien càng nhìn thấy họ đến gần mình thì càng sởn tóc gáy. Họ trông như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây ? Họ tiến đến bên cha sờ vào mặt, vào tay, vào áo cha…

Cha hỏi Đức Giám Mục: “Thưa Đức Cha, họ làm gì thế ? Họ nói gì thế ?” Đức Cha trả lời: “Họ nói, họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như cha, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin mắt mình nên mới đến sờ mó vào người cha, xem thử cha có thực sự bị phung hủi như họ không. Rồi họ nói với nhau: “Không, Cha đẹp quá!”.

Dần dần, cha Đamien hoà đồng được với họ. Ngài không còn cảm thấy tởm gớm họ như ngày đầu. Nói đúng hơn, ngài quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ nên chẳng còn thấy e sợ, gớm ghiếc chi. Một ngày kia, đến lượt cha cũng bị mắc bệnh phong hủi. Thân hình cha lở loét, nhức nhối. Mặt mày cha sù sì, đen đủi, u nần trông rất dễ sợ.

Một số báo ở Bỉ đăng hình cha Đamien để mô tả sự hy sinh vĩ đại của cha. Bà cụ thân sinh của cha mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình cũng chẳng nhận ra nổi người con yêu. Bà hỏi các con trong gia đình: “Hình ai đây mà trông mà trông ghê sợ vậy ?” Các con đều trả lời mẹ: “Thưa mẹ, đó là một trong những người hủi trên đảo Molokai của anh Đamien đấy”. Qua mặt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ… Cha Đamien đã sống với người hủi cho đến chết. Tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.

Ở Việt Nam có hai trại cùi lớn: trại Di Linh trên đường lên Đà Lạt và trại Quy Hoà ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn. Đức Cha Jean Cassaigne đã gắn bó với anh em dân tộc K’Hor ở Di Linh bị phong cùi một thời gian dài, rồi sau 15 năm làm Tổng Giám Mục Sài gòn, đã lại xin tình nguyện quay trở về sống giữa những người bệnh cùi ở Di Linh. Ngài sống với họ thêm 18 năm rồi lây bệnh và qua đời năm 1973. Trái tim của người Việt Nam và cả thế giới đều rung cảm, ai cũng cảm phục tấm gương chứng nhân của ngài.

Cha Paul Mahu, một Linh Mục người Pháp đã từ giã quê hương với cuộc sống tiện nghi đến sống giữa những người cùi ở Quy Hoà cho đến chết. Xác ngài được chôn cất ngay giữa làng cùi bên cạnh những người ngài thương yêu nhất.

Ngày nay các Giáo Xứ khắp nơi gần xa thường tổ chức hành hương đến Di Linh, Quy Hoà để viếng mộ Đức Cha Cassaigne và Cha Mahu, thăm viếng và tặng quà cho các bệnh nhân.

Các Nữ Tu của các Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn và Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ đã đến sống phục vụ giữa những người bị xã hội xa lánh loại trừ. Chính tình yêu Chúa Kitô đã thúc đẩy các môn đệ đến sống với họ, yêu mến họ, chăm sóc phục vụ họ.

Chúa Giêsu đã cúi xuống, sờ đến người cùi và họ liền được lành sạch. Các môn đệ của Chúa cũng sờ vào người cùi, sống với người cùi đem lại cho họ tình thương, bình an và niềm vui.

Tinh thần dấn thân phục những người cùng khổ mang một ý nghĩa Tin Mừng sâu xa như lời Đức Thánh cha Bênêđictô trong Sứ điệp ngày Thế Giới các bệnh nhân 2012: “Sự quan tâm và chăm sóc mục vụ cho các bệnh nhân, một đàng là dấu chỉ sự dịu hiền của Thiên Chúa đối với người đang đau khổ, và đàng khác mang lại lợi điểm tinh thần cho cả các Linh mục và toàn thể cộng đoàn Kitô, với ý thức rằng những gì được làm cho người bé nhỏ nhất, chính là làm cho Chúa Giêsu” (số 3).

Để phục vụ bệnh nhân theo đức ái Kitô giáo, Đức Thánh cha Phanxicô căn dặn: “ưu tiên tuyệt đối cần ‘ra khỏi mình để đến với người anh em’, như một trong hai giới răn chính làm nền tảng cho mọi qui luật luân lý và như dấu chỉ rõ ràng nhất để phân định trên hành trình tăng trưởng tinh thần đáp lại sự hiến thân tuyệt đối nhưng không của Thiên Chúa” (Số 4).

Xin Đức Maria, sức mạnh của những người đau ốm, chuyển cầu để mỗi người khi đau bệnh có thể cảm thấy sự nâng đỡ từ sự chăm sóc của những người ở bên cạnh, cũng như sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa và sự an ủi vì tình mẫu tử âu yếm của Mẹ” (RV).

Lạy Mẹ Maria là Tòa Đấng Khôn Ngoan, trong tư cách là Mẹ, xin cầu bầu cho tất cả các bệnh nhân và những người săn sóc họAmen”. (Số 6).

[Mục Lục]

Bài 9. Vâng phục, tín thác và tri ân

AM Trần Bình An

Ngày 20 tháng 9, 1940, Nguyễn Trọng Trí nhập trại phong Quy Hòa, thời Mẹ Maria Juetta. Sau ba tuần, nhờ sự chăm sóc tận tụy của các nữ tu dòng Phan Sinh (Franciscaine), bệnh tình Trí thuyên giảm.. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của Trí đều đều như kinh Nhật Tụng: 5 Giờ sáng dậy đi nhà nguyện đọc kinh, sốt sắng dâng lễ, rước lễ. 7 Giờ cùng anh em bệnh nhân dùng điểm tâm cháo trắng với đường tán đen. 8 Giờ được băng bó, uống thuốc hoặc chuyện vãn với anh em đồng bệnh. 11 Giờ cơm trưa rồi nghỉ ngơi. 14 giờ 30 Lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ dùng cơm chiều… Trí là một người rất sùng kính Ðức Mẹ Maria, lúc nào cũng cầu xin Ðức Mẹ và thứ bảy nào cũng xưng tội.. Suốt hơn một tuần, từ 30 tháng 10, 1940 đến 7 tháng 11, 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên mất sức! Ðêm ngày 8. 11. 1940 Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de l’ Âme (Tâm Hồn Thanh Khiết) để ca tụng Ðức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu và các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc Trí. Ðây là bút tích cuối đời của Trí. Khi ông Nguyễn Văn Xê đưa Mẹ Nhất Maria Juetta, người Pháp, đọc bài viết này, Mẹ Juetta nói: “Giỏi quá, uổng quá, Hàn Mạc Tử là một thiên tài hiếm có! Nhưng Mẹ xin phép tác giả đổi chữ “nénuphards” (hoa súng) thay cho chữ “lotus” (hoa sen) vì cuộc đời tu sĩ của chúng tôi tại đây với các bệnh nhân phong, chính là những bông hoa súng lên xuống theo con nước và bập bềnh trôi nổi như mọi vật trong hồ, chứ không dám tự nhận mình như những bông hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi. (Lm Trần Quý Thiện, Tưởng niệm nhà thơ Công giáo Hàn Mặc Tử)

Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã sống 52 ngày cưối đời thật trong sáng với tinh thần sám hối trở về, hân hoan chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, tán dương Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc qua những vần thơ tuyệt vời. Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô tường thuật Đức Giêsu chữa lành người phong, căn dặn đi trình thầy tư tế và không được tiết lộ. Nhưng khi được chữa lành, anh không thể nín lặng, công khai vui mừng rao truyền và loan tin vui.

Lời cầu xin của anh là gương mẫu cho bất cứ ai thành tâm nguyện cầu, xin Chúa xót thương cứu giúp: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Anh hoàn toàn xin vâng theo Thánh Ý Chúa toàn năng, khiến Đức Giêsu chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”

Vâng phục

“Nếu Ngài muốn,” Với lời khẩn cầu tha thiết, trân trọng Đấng Thiên Sai, anh bệnh phong tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, toàn quyền nắm giữ sinh mệnh, cũng như sức khỏe, hạnh phúc, bình an của mình. Lời nguyện xin khiêm hạ này cũng gợi nhớ “Xin Vâng” của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” (Lc 1, 38)

Người bệnh phong không dám biểu lộ ý riêng của mình, vả lại không thân thưa, thì Đức Giêsu cũng đã thấu suốt nguyện vọng ấp ủ từ bao lâu rồi. Anh hoàn toàn vâng theo Thánh Ý toàn năng, sẵn sàng chấp thuận Thiên Chúa định đoạt thân phận, không hề oán than. Một đức tin vững chãi qua cơn thử thách thật nặng nề.

Trước cuộc khổ nạn kinh hoàng, Đức Giêsu cũng làm gương sáng chói về đức vâng lời, Người ba lần cầu nguyện: “Cha ơi, nếu được xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. ” (Mt 26, 39-44)

“Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu của Ngài: “Vâng lời đến chết!” (Đường Hy Vọng, số 395)

Tín thác

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Hoàn toàn tín thác vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, người bệnh phong công khai tin cậy, trao thân gửi phận cho Đức Giêsu cứu giúp. Người Kitô hữu liệu có luôn xác tín vào Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, được Chúa Giêsu truyền cho chị nữ tu Faustina Kowalska hay chăng? “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa.” Có hoàn toàn vững tin như lời nguyện Hiệp Lễ chăng? “Lạy Chúa, con không đáng rước Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch.”

Vì đặt trọn niềm tin và hy vọng vào Chúa, người phong không ngần ngại lỗi luật Do Thái, phải chịu cách ly với người lành. Đức Giêsu vì thương yêu, chí nhân chí ái, cũng vô tư vượt qua điều luật này, khi Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”

“Con người hy vọng để sống, để tiếp tục sống. Con người sẽ quay về với ai có thể mang lại cho họ niềm hy vọng lớn lao nhất: Niềm hy vọng ấy, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10). Niềm hy vọng ấy, Chúa ban qua tay Mẹ Maria:”Nguồn hy vọng của chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 962)

Tri ân

Được chữa lành, anh quên ngay lời Đức Giêsu căn dặn “đừng nói gì với ai cả.” Bởi vì lòng anh tràn ngập niềm tri ân, cảm tạ Thiên Chúa. Anh không thể giữ niềm vui, ân huệ cho riêng mình, mà hân hoan công khai chia sẻ với mọi người về hồng ân mới lãnh nhận nhưng không. Nên vừa đi khỏi, anh đã rao truyền và loan tin ấy khắp nơi.”

Lòng Mến tràn đầy của anh đã lan tỏa khắp nơi, khiến dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Đức Giêsu. Niềm tri ân, lòng cảm mến đã biến anh thành chứng nhân sống động, rao giảng Tin Mừng đến tha nhân. Anh không sở hữu ơn cứu độ cho riêng mình, mà trái lại anh đã thực hiện đúng ba bước như mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích. Ngài cho rằng có ba tiêu chuẩn để không không tư nhân hóa sự cứu rỗi: “Đức Tin vào Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta, Đức Cậy khích lệ chúng ta nhìn tới những lời hứa và tiến đi về phía trước và Đức Mến là chăm sóc lẫn nhau, khuyến khích tất cả chúng ta thực hành bác ái và các việc lành.” (Đồng Nhân, Vietcatholic, ĐTC: Thành phần ưu tú của Giáo hội không được biến đức tin làm của riêng mình)

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu thoát chúng con khỏi bệnh phong, khỏi bệnh liệt kháng tâm hồn, xin cứu chúng con khỏi vũng lầy tội lỗi, khỏi thung lũng đầy nước mắt này, xin ban cho chúng con biết sám hối, ăn năn trở về cùng Chúa hằng ngày.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn che chở chúng con khỏi những căn bệnh nan y thời đaị là đánh mất Tin, Cậy, Mến. Xin Mẹ cầu bầu, cứu giúp chúng con thoát khỏi cạm bẫy ba thù, để được Mẹ dắt dìu chúng con theo Chúa luôn. Amen.

[Mục Lục]

Bài 10. Hậu quả đáng sợ của tội lỗi

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Tội lỗi dưới mọi hình thức (như kiêu căng, tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, gian dối…) là những thứ bệnh tật của tâm hồn, làm cho con người ra nhơ uế, khả ố, đáng khinh…

Thông thường, khi mắc phải tội lỗi mà chưa bị phát hiện, chúng ta vẫn thanh thản như không có chuyện gì xảy ra và cũng không cảm thấy cần phải ăn năn hối cải.

Khi đó, việc cần phải làm là cố gắng che đậy những tội lỗi xấu xa của mình đi, không để cho ai nhìn thấy; mà vì che đậy kỹ quá, khéo quá nên dần hồi, ngay cả bản thân ta cũng không còn nhận ra những tội lỗi và thói xấu của mình.

Thế rồi, khi ai đó phát hiện được những thứ tội ta mắc phải và rêu rao với người chung quanh rằng ta là người kiêu căng, tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, gian dối … Bấy giờ, ta cảm thấy thanh danh của mình bị xúc phạm, phẩm giá bị tổn thương nặng nề. Ta giận điên lên; ta oán ghét thậm tệ người đã vạch áo ta cho người khác xem lưng.

Giả như chúng ta mắc bệnh phong cùi và cố tình che giấu không cho ai biết, lại có người tiết lộ chuyện này ra cho mọi người biết, có lẽ ta sẽ không buồn, không giận cho bằng kẻ đã phơi bày tội lỗi của chúng ta ra trước mặt người khác.

Thế là cho đến lúc này, ta mới thấy được những tội lỗi mà lâu nay mình ra sức che đậy, giấu giếm, gây hại cho ta hơn cả bệnh phong cùi, vì chúng hạ thấp phẩm giá của ta, làm tổn thương danh dự ta, làm mất mặt ta!

Tội lỗi tai hại và đáng ghê tởm hơn bệnh phong cùi

Tội lỗi tai hại hơn bệnh phong cùi vì ba lý do sau đây:

Thứ nhất: Bệnh phong chỉ làm hại thân xác người bệnh mà thôi, trong khi đó, có nhiều thứ tội không chỉ làm hỏng cuộc đời của người mang tội mà còn gây thiệt hại nặng nề cho bao người chung quanh.

Tội tham lam (tham của, tham tiền, tham chức, tham quyền…) đã gây ra biết bao thiệt hại về người và tài sản vì chúng gây ra chiến tranh, tham ô, cướp của, giết người, lừa đảo…

Tội ganh tỵ nơi Ca-in khiến anh đang tâm sát hại đứa em vô tội của mình là A-ben (Sáng Thế 4, 1-8); tội tà dâm trong lòng vua Đa-vít khiến nhà vua cướp vợ người khác, đồng thời giết hại tôi tớ trung thành của mình là U-ri-a (2 Samuen, 11,1-16).

Thứ hai: Bệnh phong có thể được chữa trị dứt điểm cách dễ dàng sau chừng 6 đến 12 tháng điều trị, trong khi nhiều thứ tội lỗi ăn sâu vào tâm khảm con người rất khó điều trị dứt điểm và nhiều người đành mang tội xuống mồ.

Thứ ba: Tội lỗi đáng ghê tởm hơn bệnh phong cùi, vì bệnh phong không làm mất thanh danh của ta, không làm cho ta nên khả ố trước mặt mọi người, không làm cho phẩm chất của ta bị sa sút trầm trọng, trong khi đó, tội lỗi gây nên tất cả những hậu quả đáng tiếc đó.

Chỉ khi nào ta thấy tội lỗi gây ra nhiều điều tai hại và còn tệ hại hơn cả bệnh phong cùi, làm cho ta trở nên khả ố, mất phẩm chất cao đẹp… thì ta mới cố sức chừa bỏ chúng.

Tin Mừng thánh Mác-cô trích đọc hôm nay thuật lại rằng: Hôm ấy “có người bị phong hủi đến gặp Chúa Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi! “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc 1, 40-45).

Chúa Giê-su là Đấng có quyền năng cứu chữa người phong hủi được sạch và Ngài cũng đủ quyền năng nhổ sạch cội rễ của mọi thứ tội lỗi ra khỏi tâm hồn chúng ta.

Lạy Chúa Giê-su,

Như người phong hủi năm xưa đến gặp Chúa và xin Chúa chữa lành, chúng con cũng tha thiết nài xin Chúa cứu chữa chúng con khỏi tội lỗi và thói hư tật xấu đang thống trị đời mình.

Xin cho chúng con thấy rằng tội lỗi tai hại và đáng sợ hơn cả bệnh phong cùi để quyết tâm xa lánh.

Xin cho Lời Chúa thấm nhập vào tâm hồn chúng con và thanh tẩy chúng con khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, để tâm hồn được trở nên trong sáng, cho phẩm chất được nâng cao. Amen.

[Mục Lục]

Bài 11. NẾU THẦY MUỐN, THẦY CÓ THỂ CHỮA TÔI

Noel Quesson

Người phong cùi quỳ xuống cầu xin Chúa: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.

Bác sĩ Collins là một người vô tín, có kiến thức cao, ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:

- Bác đi đâu vậy?

- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.

- Chúa của bác to hay nhỏ?

- Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức các tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim tôi.

Câu nói của bác nông dân đã tóm gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi sự. Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim ta. Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như vậy.

Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người phong cùi là loại người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung với cha mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với người phong cùi. Trò chuyện với họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó, một người phong cùi đã nghe nói về Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt Chúa và van xin: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.

Chuyện này xảy ra vào giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như một dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng, mới có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho thần linh, cho Thượng Đế.

Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu thương đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành chúng con và những người anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi khen Ngài.

[Mục Lục]

Bài 12. PHONG CÙI

Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và theo quan niệm của người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do tác động của một thứ thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ dưới quyền lực của ma quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với người trong sạch. Theo lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng xã hội của những kẻ mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng loài người, cả về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.

Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy chi tiết giúp chúng ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu. Thực vậy chính người mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và van xin Ngài cho anh được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh muốn Chúa Giêsu cho anh được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và được gia nhập cộng đồng xã hội.

Hành động của người mắc bệnh quả là táo bạo. Anh đã liều lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh người khác, thậm chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với Chúa Giêsu, để trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành. Hành động liều lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở quyền năng của Chúa Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ thương yêu của Ngài, muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã từng được nghe thiên hạ nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã không tin tưởng hão huyền. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và lòng tin của anh. Và Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa anh.

Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài đã giơ tay đặt trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như là một sự khuyến khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật, hay nói cách khác, lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được lành hãy đi trình diện cùng trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi thức mà tất cả những người được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để được công khai và chính thức tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội.

Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó, với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 13. BỆNH PHONG TÂM HỒN

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.

Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.

Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.

Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.

Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.

Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1/ Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

2/ Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?

3/ Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?

4/ Bệnh phong tâm hồn là gì?

[Mục Lục]

Bài 14. TÔI MUỐN, ANH HÃY LÀNH BỆNH

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Khi chứng kiến bệnh tật nan y của những người thân và của chính mình, ai trong chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi bởi vì chúng ta cảm nghiệm cái chết lần hồi đến cất đi mạng sống của những người thân yêu của chúng ta mà những phương tiện y khoa và thuốc men của con người đều bất lực. Những cảm nghiệm này giúp chúng ta cảm thông tâm trạng của người bị bệnh phong cùi trong câu chuyện Tin mừng hôm nay cũng như biết nhìn lại chính thân phận tội lỗi và bệnh tật của chính mình. Vào thời Chúa Giêsu, đối với người bị bệnh phong cùi, cuộc đời của họ sẽ không còn có tương lai nữa, không còn hy vọng chữa trị.

Vào thời đó, những người bị bệnh phong cùi ở xứ do thái bị buộc sống tách rời khỏi dân chúng, xa cách cộng đoàn và không được tham dự vào đời sống tôn giáo cũng như xã hội với mọi người. Theo luật sách Lêvi, khi thấy có những dấu hiệu lạ trên thân thể, họ phải được vị tư tế khám và quyết định tình trạng sống biệt lập của họ. Họ phải sống cách ly với những người khác, phải mặc áo rách và la lớn tiếng « ô uế » để những người khác biết mà tránh. Vì thế, họ phải sống trong đau khổ và chỉ còn biết làm bạn với những người đồng cảnh ngộ. Đây chính là những biện pháp cẩn trọng từ thời xa xưa áp dụng để tránh những người khoẻ mạnh tiếp xúc với cơn bệnh đáng sợ này.

Tin mừng thuật lại một người phong cùi đến với Chúa Giêsu. Trong đau khổ, anh đã có sự sáng suốt và tìm đến Chúa Giêsu và với thái độ rất khiêm tốn quì gối xuống trước mặt người và ngỏ lời với người rất cung kính và tin tưởng : « nếu ngài muốn, ngài có thể khiến tôi được sạch. » Tin mừng thuật lại một cách rất tự nhiên : Chúa Giêsu động lòng thương cảm, đưa tay chạm đến anh và nói với anh : Tôi muốn, anh hãy khỏi bệnh. Tức khắc bệnh cùi biến mất và anh đã được sạch. Theo Thánh Kinh, bệnh cùi không chỉ là cơn bệnh thể lý đáng sợ gậm nhấm và làm biến dạng con người. Bệnh này còn bị xem như là hình phạt nặng nề của Thiên Chúa dành cho những tội nặng. Vì thế, khi mô tả những cử chỉ của Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của người cùi, chúng ta cũng hiểu được thái độ đầy yêu thương của Chúa Giêsu dành cho người này. Người đã yêu thương đưa tay ra chạm đến anh và nói lời chữa lành rất hiệu quả khiến cho bệnh cùi được chữa lành ngay lập tức. Câu chuyện được thuật lại khá đơn giản, nhưng tác giả của bài Tin mừng muốn giúp chúng ta hiểu rằng việc chữa lành những người cùi là một trong những dấu chỉ của thời đại Đấng cứu thế. Đấng cứu thế đến để cứu chữa con người, chữa lành bệnh tật, làm cho con người được mạnh khoẻ tinh thần và thể xác, chữa con người khỏi những nguyên nhân sâu xa của bệnh tật và sự chết là tội lỗi và tái lập tương quan của con người với Thiên Chúa và với những người khác. Mặt khác, cũng cần thấy rằng tội lỗi làm con người mất đi sự hiệp thông đời sống và hạnh phúc với Thiên Chúa và với người khác. Tội lỗi giam cầm con người trong cô đơn, tuyệt vọng và chỉ có lòng thương xót ân cần và tha thứ của Chúa Giêsu cứu thoát con người ra khỏi hố sâu tuyệt vọng này. Tin mừng còn cho thấy thái thái độ nghiêm nghị và cứng rắn của Chúa Giêsu, không cho phép anh cho những người khác biết việc chữa lành, chỉ cần anh trình diện với tư tế theo luật để hội nhập lại vào đời sống xã hội và tôn giáo với mọi người. Chúa Giêsu muốn anh kín đáo và không muốn mọi người hiểu lầm về sứ vụ của người. Ngược lại, người nhắc nhở anh hãy đi trình diện với tư tế để được hội nhập vào đời sống cộng đoàn đồng thời qua đó, một cách gián tiếp, cũng làm chứng cho mọi người hiểu được đây là dấu chỉ của thời đại Đấng cứu thế.

Nhưng điều ngạc nhiên đó là người được chữa lành không tuân theo lời nhắc nhở của Chúa Giêsu. Anh đi và loan báo tin mừng này cho mọi người khiến Chúa Giêsu không thể công khai vào trong thành, và người phải ở ngoài, nơi hoang địa và dân chúng kéo đến với người. Người được chữa lành này vừa gây khó khăn cho Chúa Giêsu, nhưng ngược lại cũng nhờ đó mà dân chúng lại kéo đến với người, dù người ở ngoài thành trong những nơi hoang địa. Chúng ta hình dung người bị bệnh được chữa lành này, ban đầu khi đến với Chúa Giêsu, anh là một người bị bệnh phong hủi cô đơn, xa cách với mọi người, nhưng đã dám can đảm đến với Chúa Giêsu với một thái độ tin tưởng và khiêm tốn, và sau cùng đã trở nên một con người hoàn toàn được biến đổi, anh đã vui tươi gặp gỡ mọi người, hoàn toàn bắt đầu một đời sống mới, loan báo và làm chứng về Chúa Giêsu cho mọi người để dân chúng đến với người.

Thánh Phaolô cũng là hình ảnh của một người được biến đổi, và người chia sẻ với chúng ta những xác tín hiện tại của mình và mời gọi mỗi người cũng hãy có một đời sống mới mẻ và phong phú vì đã có đời sống thân mật với Chúa Giêsu: « dù ăn dù uống, dù làm việc gì khác, anh em hãy làm vì danh Chúa. Anh em đừng làm bất cứ điều gì để nên cớ vấp phạm cho người khác. » Đời sống tương quan mới mẻ với Chúa Giêsu đã làm cho thánh Phaolô cảm nghiệm thực sự trong mọi việc làm của mình, dù đơn giản và thông thường nhất như việc ăn uống cũng là vì Danh Chúa, vì kết hợp mật thiết với Chúa. Đồng thời, ngay cả mặt tiêu cực của hành động, cũng cần phải cẩn trọng, tức là đừng làm gì để gây vấp phạm cho người khác. Thánh Phaolô chia sẻ cố gắng thiết thân của mình, đã không làm vì để tìm tư lợi cho mình, nhưng luôn cố gắng làm vì lợi ích của mọi người và người làm điều này vì đã học được nơi chính Chúa Giêsu.

Câu chuyện của bài Tin mừng là lời mời gọi mỗi người chúng ta gặp gỡ và được chữa lành bởi Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi, như người bị bệnh phong cùi, tin tưởng và khiêm tốn đến với Chúa Giêsu để xin người chữa lành bệnh tật nơi chính mình để rồi khởi đầu một đời sống mới trong người. Bệnh tật và sự chết có nguyên nhân sâu xa nơi tội lỗi của con người và chỉ có sức mạnh thần linh từ Chúa Giêsu mới có thể chữa chúng ta khỏi những nguyên nhân sâu xa của bệnh tật và sự chết. Phẩm giá nơi mỗi người chúng ta được chính Chúa Giêsu, với lòng thương xót tha thứ của người chăm sóc và chữa lành, để trả lại cho chúng ta phẩm giá này vì chúng ta cần sự chăm sóc hữu hiệu và quyền năng của người. Chúng ta sẽ cảm nghiệm lòng thương xót và sự chăm sóc của người mỗi khi trong những đau khổ và thiếu thốn của mình, chúng ta biết chạy đến với người và kêu xin lòng thương xót của người. Chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm sự chăm sóc đầy lòng thương xót của người khi chúng ta theo lời của thánh Phaolô, càng ngày càng đặt người là trung tâm của đời sống mình, để rồi dù làm bất cứ việc gì, dù ăn dù uống, chúng ta đều kết hợp mật thiết với người. Người chính là niềm vui và niềm hy vọng, niềm tự hào và lẽ sống của chúng ta và ơn cứu độ của chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 15. LẠC QUAN

Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ Do thái vẫn rất khắt khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có từ thời ông Môsê được ghi lại trong chương 13 sách Lêvi, qui định rất tỉ mỉ và rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch. Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: “dơ, dơ” để người ta biết mà tránh xa. Nếu họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn và bị khai trừ trong thời gian luật định.

Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau thương trong khốn cùng tuyệt vọng.

Hiểu rõ số phận người cùi như vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi. Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa, thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.

Thái độ của người cùi này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin. Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng. Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài đặt nhẹ tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”.

Đặt tay hay đụng chạm đến người cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi, Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.

Câu truyện người cùi trên đây tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta. Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.

Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử… Chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.

Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.

Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội nữa.

 

[Mục Lục]


Trở lại      In      Số lần xem: 3782
Tin tức liên quan
Tin tức mới cập nhật
Video
Trở Lại Đi Con Ơi ! - Ca Đoàn Thánh Gia
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  19
 Hôm nay:  333
 Hôm qua:  3093
 Tuần trước:  25660
 Tháng trước:  108657
 Tất cả:  12369091

Copyright @ 2013 Giáo Dân Tân Thái Sơn

Mọi ý kiến đóng góp và bài viết xin vui lòng gửi qua Email: Canhtanthaison@gmail.com

Thiết kế bởi webso.vn