Giáo xứ Tân Thái Sơn  - Giáo Hạt Tân Sơn Nhì - Giáo Phận Sài Gòn - LM chính xứ: Phêrô Lê Hoàng Chương  - LM Phó xứ: Gioan Baotixita Trần Nhật Thanh - Andre Nguyễn Công Thái  -  "KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH." (Ga:15,13) Ave Ma-ri-a - "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." (Lc 11, 28) - Thành Lập Và Quản Trị Trang Web: Giuse Trần Đình Cánh.

Các Bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật II TN Năm B

Các Bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật II TN Năm B

Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhậ
t II TN – năm B
Lời Chúa:
 1 Sm 3,3b-10.19; 1 Cr 1, 6-15.17-20; Ga 1, 35-42
***************

MỤC LỤC
1/ Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Các môn đệ đầu tiên
2/ Chú giải của Noel Quesson
3/ Chú giải của Fiches Dominicales: Từ lời chứng
4/ Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Các môn đệ tiên khởi
5/ Lắng nghe tiếng Chúa gọi (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
6/ Ở lại với Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7/ Đây là Chiên Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8/ Giới thiệu Chúa cho mọi người (JM. Lam Thy ĐVD)
9/ Giới thiệu
10/ Hãy đến mà xem (Lm. Ignatiô Trần Ngà)
11/ “Hãy quên đi cái tôi…” (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
12/ Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay (JB. Nguyễn Quốc Tuấn)
13/ Đến và ở lại (Anmai)
14/ Ơn gọi (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
15/ Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế (Radio Veritas Asia)
16/ Đáp lời Chúa gọi (Lm. Đam Trần Đình Nhi)
17/ Hành trình ơn gọi (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
18/ Lắng nghe tiếng Chúa (Lm. Anphong Trần Đức Phương)
19/ Họ đến và ở lại với Người (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
20/ Lắng nghe (Trầm Thiên Thu)
21/ Tiếng Chúa gọi (AM Trần Bình An)

22/ Hành trình của đức tin (Lm Đan Vinh)
23/ Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý
24/ “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự, TGP Sài gòn)

 

 

A/ BẢN VĂN

Bài đọc I (1 Sm 3, 3b-10. 19)

Ngày ấy, Samuel ngủ trong đền thờ Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Chúa đã gọi Samuel; cậu trả lời: “Này con đây”, rồi chạy đến Hêli và nói: “Này con đây, vì thầy gọi con”. Hêli trả lời: “Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi”. Samuel đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần nữa, và Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: “Này con đây, vì thầy gọi con”.

Hêli trả lời: “Này con, Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi”. Samuel chưa nhận ra Chúa, và lời Chúa chưa được mạc khải cho cậu. Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: “Này con đây, vì thầy gọi con”. Hêli biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với Samuel: “Hãy đi ngủ, và nếu Người còn gọi con, thì con nói rằng: ‘Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe'”. Samuel trở về chỗ mình và ngủ lại. Chúa đến gần và gọi Samuel như những lần trước: “Samuel, Samuel!” Và Samuel thưa: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe”.

Phần Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa.

Bài đọc II (1 Cr 6, 13c-15a, 17-20)

Anh em thân mến, thân xác không phải vì dâm dật, mà vì Chúa, và Chúa vì thân xác. Thiên Chúa đã cho Chúa sống lại, cũng sẽ dùng quyền năng Người cho ta sống lại.

Anh em không biết thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô sao? Nhưng ai kết hợp với Chúa thì nên một thần trí. Vậy hãy xa lánh dâm dật. Mọi tội lỗi người ta phạm đều ngoài thân xác, nhưng kẻ tà dâm thì phạm tội trong thân xác mình. Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em mà anh em đã nhận lãnh nơi Thiên Chúa, vì anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh em đã được mua chuộc bằng một giá rất lớn. Vậy anh em hãy tôn vinh Chúa trong thân xác anh em.

Tin Mừng (Ga 1, 35-42)

Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ: “Các ngươi tìm gì?” Họ thưa với Người: “Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người đáp: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.

Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô”. Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: “Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá”.

[Mục Lục]

B/ CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN

1/ Ngữ cảnh

Trong TM IV, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái khung gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.

hai ngày đầu : Gioan làm chứng (phủ định – khẳng định) ;

ngày thứ ba (“hôm sau”, Ga 1,35): lần này Gioan giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36);

- đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này;

- ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Nathanaen;

- “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tại Cana miền Galilê.

Các mốc về thời gian này có một ý nghĩa mà chúng ta cần nắm vững, để hiểu được bản văn. Chúng ta sẽ phân tích các nghĩa này trong truyện Tiệc cưới Cana (2,1-12).

2/ Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1/ Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);

2/ Anrê (1,40-42a);

3/ Simôn (1,42b).

3/ Vài ghi chú về chú giải

- Ông Gioan đang đứng… (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tiền Hô (x. Mc2,18t; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (c. 41); còn người thứ hai thì vô danh.

Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:

* Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.

TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Nathanaen.

* Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tiền Hô, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Gioan bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.

* Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ; thật ra bản văn Mc là một bản tóm về thần học ơn gọi. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tiền Hô.

- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Gioan còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga 14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.

- Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong ngôn ngữ Hy Lạp của Bản LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Kn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Hípri, “tìm” là darashdarash hattorah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.

- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? (38): Rabbi là danh xưng tôn kính để gọi các kinh sư.

Thầy ở đâu? (38): Trên môi các môn đệ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).

- Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là:blepeintheasthai, theôreinhoran [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. TrongGa 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.

Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức độ sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).

- Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: theo các TMNL, đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quý và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).

- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn củaCựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, “ngày” là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.

- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.

- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia”Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Nathanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.

- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ Aram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c. 38) và Mêsia (c. 41), kêpha là từ Aram; điều này khiến chúng ta lưu ý là có ba từ Aram trong cùng một đoạn văn. Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ngài cũng rất quen thuộc các thuật ngữ Aram. Bản RSVdịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vậy anh là Simôn con ông Gioan à?”. Thật ra, bản văn không gợi ý một câu hỏi. Còn việc Đức Giêsu đặt tên cho Simôn thì chúng ta hiểu: Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Dn 1,7); các người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc1,63).

4/ Ý nghĩa của bản văn

* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)

Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).

Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa’” (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Người thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại Người đề cập đến (x. Ga 20,19-23).

Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời xa ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.

Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.

Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người làrabbi, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Rất có thể chi tiết này gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là rabbi. “Thưa rabbi”. Rabbi là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là Rabbi.Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.

Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữrabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).

Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong hy-ngữ, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là rabbi. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL(x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.

Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.

Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể TM(Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?

Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa rabbi (Ga 1,38), nhưng danh hiệu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.

Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (Ga: 40 lần; truyền thống Gioan 28 lần (1 Ga: 24x; 2 Ga: 3x;Kh: 1x)[2].

Động từ này được TM Ga dùng theo các nghĩa sau[3]: (1) Nghĩa thông thường: “Ở lại” hoặc “sống” tại một nơi nào đó (1,39; 2,12; 4,40; 12,24). Thường, ý nghĩa địa dư này chuyển sang nghĩa thần học; (2) Nghĩa thần học: “Ở lại” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Người (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3). Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga15,4.5.7). Ý nghĩa tối hậu của bí tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56). Đây là một tình trạng cánh chung mà mọi tín hữu có thể sống ngay lúc này, nếu tuân giữ giới răn yêu thương (Ga 15,10; x. 1 Ga 4,12.16).

Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả Rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.

Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menơ) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.

* Anrê (40-42a)

Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trongGa 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Hội Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29);Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.

Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2;Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.

Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái mô hình đơn giản (pattern) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.

Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho anh. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia (messian)”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Hípri (mashiah) ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô (christos)”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.

Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như mộtrabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).

Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.

Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IVrút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.

* Simôn (42b)

Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.

Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Người.

Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Người nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.

Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của chương 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên Aram mới Kepha’ thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Hội Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.

+ Kết luận

Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.

5/ Gợi ý suy niệm

1/ Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tiền Hô. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.

2/ Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.

3/ Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động không? Nếu không, vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?

4/ Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?

[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.

[2] X. MORGENTHALER, Statistik, 119, và R. E. BROWN, John I, 510. Các tác phẩm Tân Ước khác: TMNL: 12x [Mt 3x; Mc 2x; Lc 7x]; Cv: 13x; Phaolô: 17x (Rm 1x; 1 Cr 8x; 2 Cr 3x;Pl 1x; 1 Tm 1x; 2 Tm 3x); Dt: 6x; 1 Pr: 2x.

[3] Có thể đọc những gợi ý phong phú về ý nghĩa của menô trong LÊ MINH THÔNG, Tình yêu và tình bạn, 65-78.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải của Noel Quesson

Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt” trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.

Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường” hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.

Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.

Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông”.

Đây là biểu tượng cho “nếp sống thường ngày”, bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm… cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?

Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như “không có cái gì xảy ra”, thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.

Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.

Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một “Tuần lễ đầu tiên”: chủ yếu là gây chú ý “buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.

Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.

Ga 1,35: Ngày thứ tư, “Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.

Ga 2,1: Ngày thứ bảy, “Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.

Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một “Tin Mừng”: đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể “mạc khải” như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.

Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?

Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến “biến cố” sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.

Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là chiên Thiên Chúa”.

Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là “Chiên Thiên Chúa” sao!

Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước “chuyển tiếp” từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc “giải phóng” ít-ra-en. Ngoài ra, từ “con chiên” trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa” hoàn hảo như “một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than”. Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một “con chiên Chúa”, có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm “bảo vệ cả đoàn chiên”. Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng “Đây Con chiên vô cùng hiền lành” không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại… Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!

Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.

“Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.

Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp… Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?

Thật là quá “liều” khi theo một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.

“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi…”

Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là “cái nhìn đầu tiên” của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt…

“Các anh tìm gì thế?”

Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. “Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?

Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một “khẳng định”, nhưng là một “câu hỏi’. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ “cởi mở”, không thể “khép kín” trong một hệ thống đóng khung, như các “tư tế và trợ tế” đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ “tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. “Lạy Chúa, Chúa là ai?”, kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. “Không có Thiên Chúa! – Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia – Bạn có xác tín như thế không?”. Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: “Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết “hồ nghi”. Cũng vậy, cần phải biết “đặt câu hỏi”, như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: “Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể “thấm ướt” được, thì làm sao có thể tiếp thu… “.

Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.

Họ đáp: ‘Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”.

Tìm kiếm… bước theo… cư ngụ… đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: “Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?

“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.

Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.

Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của “người môn đệ”: “kiếm tìm”(1,38), “đến xem” (1, 39 và 46), “quan sát” (l,39 và 41), “gặp thầy” (1,41 và 45), “bước theo” (l,37.38.40.43) “ở lại” (l,38.39).

Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc “bốn giờ chiều’, (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ “tìm kiếm” của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.

“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô”.

Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay “ơn gọi”, thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.

Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?

“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha”, “tức là Phêrô”.

Trở nên môn đệ, nghĩa là “thay đổi” đời sống… đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một “con người mới”. Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường.

Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã “tìm kiếm” Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ… Chinh Người khởi xướng trước nhờ “ân sủng” kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người… vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Fiches Dominicales: TỪ LỜI CHỨNG

TỪ LỜI CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ ĐẾN CUỘC GẶP GỠ VỚI ĐỨC GIÊSU.

TỪ CUỘC GẶP GỠ VỚI ĐỨC GIÊSU ĐẾN LỜI CHỨNG CỦA NHỮNG MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN.

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1/ Từ lời chứng của Gioan đến cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu:

Người đọc có thể nhận ra ngay những điểm dị biệt so với bài tường thuật về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên nơi các Tin Mừng Nhất lãm.

Theo sự trình bày của Gioan, các môn đệ đầu tiên, những con người sẽ tập hợp thành cái nhân ban đầu, của nhóm Mười Hai, quả là dân gốc gác xứ Galilê. Nhưng câu chuyện họ được Chúa gọi ở đây lạt không xảy ra ở ngay tại Galilê, bên bờ hồ nào đó thuộc miền ấy, mà lại ở bờ sông Giođan nơi họ từng theo làm môn dê của Gioan Tẩy Giả.

Cũng vậy, trong lúc nơi các Tin Mừng Nhất lãm, lời kêu gọi của Chúa mặc hình thức một lệnh truyền: “Các anh hãy theo tôi”, thì ở đây, hai môn đệ đầu tiên, là Anrê và chắc là Gioan, con ông Giêbêđê, lại được khỏi động bởi lời chứng của Gioan Tẩy Giả: “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, tác giả Tin Mừng viết, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời chứng xác nhận các điều đã hứa xưa, nay đã được thực hiện nơi Đức Giêsu. Rồi thánh sử Gioan tiếp ngay: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (“đi theo”, trong ngôn ngữ Kinh Thánh có nghĩa là: làm môn đệ).

Tuy nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của lời chứng ông Gioan trong quá trình gặp gỡ Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng thứ tư cũng quan tâm không kém đến tư cách chủ động của Chúa trong suốt bài tường thuật.

Chính việc Đức Giêsu “đi ngang qua” đó là cơ hội để Gioan Tẩy Giả làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Chính Người đã “quay lại”, thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình, mới hỏi: “Các anh tìm gì thế? Câu hỏi này là lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan. Cũng một câu hỏi tương tự như thế sẽ là lời đầu tiên Đấng Phục Sinh sau này nói với Maria Mácđala: “Bà tìm ai?”. Câu hỏi đó đã gợi lên cho hai người môn đệ ý thức rõ điều thực sự họ đang tìm kiếm, và đồng thời mời gọi chính chúng ta là những độc giả Tin Mừng hôm nay, biết đặt mình trước mặt Chúa, để làm sáng tỏ ý nghĩa sau cùng của cuộc hành trình nội tâm của chúng ta.

Anrê và người bạn kia đáp lại bằng cách hỏi Chúa: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi vượt xa chuyện đơn giản chỉ liên can đến nơi ăn chốn ở của Chúa, nó đã hướng tới đời sống thân mật của Đức Giêsu với Chúa Cha.

Và chính Đức Giêsu mời gọi các ông: “Đến mà xem”. Lời mời không chỉ là đến tham quan cho biết chỗ Người chọn làm nhà ở, mà là đi vào một cuộc gặp gỡ thiết thân với Người, là biết người một cách thâm câu hơn, là “kiểm nghiệm bằng một thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đúc tin” (x: P.E Jacquemin, “Assemblées du Seigneur”, số 33, trang 57). Chúng ta đọc thấy nơi Ga 1,1-3: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã, chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến… Chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi”.

2/ Từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đến lời chứng của các môn đệ:

- Thế là có một cuộc gặp gỡ: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, thánh sử viết tiếp, và ở lại với Người ngày hôm ấy”.

  1. Marchadour ghi nhận: “Cuộc gặp gỡ được bao trùm trong một bức màn kín đáo, đem đến cho bài tường thuật một chiều kích vừa mầu nhiệm vừa sáng tỏ: từng người tín hữu chúng ta, đầu được mời gọi thực hiện cùng một bước đi ấy” (L’evangile de Jean, Centurion, trang 48).

Việc láy đi láy lại động từ “ở (lại)” (“demeurer”) lôi kéo chú ý của người đọc đến một yếu tố cốt thiết. A. Marchadour nhận xét thêm: “ở (lại)” trong Tin Mừng của Gioan, vẫn theo tác giả trên, là một thuật ngữ thần học chỉ sự hoàn tất trong Đức Tin, sự gán bó trọn vẹn vào Đức Giêsu… Đó là những bước đi đúc kết nên Đức Tin: đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ ngồi ở, ở lại với người: (Sđd, trang 47).

Đàng khác, tác giả Tin Mừng dừng lại lâu để mô tả cái phản ứng dây chuyền phát sinh từ cuộc gặp gỡ ấy với Đức Giêsu. Anrê gặp em mình là Simon, và dẫn ông này đến gặp Đức Giêsu, người mà ông xưng là “Đấng Mêsia’? Và rồi Đức Giêsu đặt cho ông em này một tên mới, mang ý nghĩa tượng trưng, cái tên công bố và biểu lộ ơn gọi rất riêng của ông ta, giữa hàng ngũ các môn đệ: “Anh là Sirnon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Képha (tức là Phêrô) ”.

Theo truyền thống Nhất Lãm, Anrê và Simon cả hai được Đức Giêsu kêu gọi cùng một lần. Theo Gioan, Simon đến gặp Đức Giêsu qua trung gian giới thiệu của anh mình; một cách nào đó ông là “kẻ đến sau”? Tuy nhiên điều đó không phủ nhận chút nào vị thế hàng đầu của Simon trong nhóm các môn đệ, bởi chính ông này, theo tường thuật của Tin Mừng thứ tư, là người được vinh dự Đức Giêsu ngỏ lời riêng đầu tiên.

Sau đó, Đức Giêsu gặp Philípphê và nói: “Anh hãy theo tôi (Philípphê là người Bétxaiđa, đồng hương với Anrê và Phêrô). Và Philípphê lại tiết lộ với Nathanaen: Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth” (c.45).

Cứ như thế, theo lối diễn tả của X. Léon-dufour, “ngọn lửa loan tin được chuyền đi, từ người này sang người khác” (Lecture de l’evangile selon Jean, tập 1, Seuil, trang 185). Phải chăng cũng chính nhờ lời chứng của các môn đệ đầu tiên đó mà biết bao tín hữu khác, đến lượt mình, cũng đã gặp gỡ được Đức Giêsu, là Đức Kitô? Làm sao Anrê và người bạn kia của ông đã phát hiện được Đấng Mêsia, nếu không nhờ Gioan Tẩy Giả? Simon Phêrô cũng thế, nếu không có anh mình là Anrê? Và cả Nathanaen, nếu không có Philípphê? Đến lượt chúng ta cũng vậy chúng ta sẽ chẳng bao giờ lãnh nhận được đức Tin nếu không nhờ sợi dây chuyền vĩ đại móc nối chúng ta với những môn đệ đầu tiên ấy.

BÀI ĐỌC THÊM

1/ Những cuộc gặp gỡ đầu tiên”.

(Mgr. L.Daloz, Nous avons vu sa gloire, Desclée de Brouwer, trang 2830).

“Tin Mừng thứ tư không hề mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả. Không một lời trao đổi nào giữa hai vị được thuật lại. Gioan nhìn thấy Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, nói về Đức Giêsu. Ông là nhân chứng, là bạn, là tiếng nói. Điều ông phải nói, ông đã học được từ Đấng sai ông. Ông không phải là môn đệ của Đức Giêsu. Ông là vị tiền hô. Sau ông, sau Đức Giêsu, là một thời mới đã khởi đầu. Sau phép rửa trong nước là phép rửa trong Thánh Thần. Gioan vừa là kẻ được chiêm ngưỡng cái thực tại mới mẻ, như ông Môsê được từ xa nhìn thấy đất Hứa, vừa đồng thời là người hướng mọi người về đó, bằng cách giới thiệu Đức Giêsu: “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: Đây là Chiên Thiên Chúa. Lời nói của Gioan tác động ngay trên các môn đệ: Các ông đi theo Đức Giêsu. Gioan phải có được một sức mạnh từ bỏ lớn như thế nào để có thể sẵn sàng gởi chính những môn đệ của mình đến với Đức Giêsu. Ong không chỉ đã dọn đường cho Chúa, mà còn đã dọn lòng những con người, để họ biết Chúa và theo Chúa. Ngay khi vừa tiếp nhận những môn đệ của Gioan, Đức Giêsu khai trương sứ mạng của Người. Mẩu đối thoại thật ngắn gọn, dứt khoát: “Các anh tìm gì thế? Thưa Rápbi, Thầy ở đâu? Đến mà xem? Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Tác giả xác định giờ giấc của cuộc gặp gỡ ban đầu ấy: Lúc đó là khoảng giờ thứ mười. Như vậy, bước thứ nhất của những kẻ sau này sẽ là tông đồ và nhân chứng của Đức Giêsu là nhận biết Người, đi theo Người, ở lại với Người. Vấn đề trước hết không phải là đi đâu và làm gì. Điều này vẫn luôn luôn đúng cho chúng ta. Đức Giêsu là: Đấng đến để hoàn tất công việc mà Chúa Chúa đã giao phó cho: Người loan báo Nước Trời, Người chết cho mọng người, người cứu chuộc qua mầu nhiệm Vượt Qua của người. Trước tiên, chúng ta cần phải bước vào Nước ấy, phải nhận biết Đức Giêsu, phải làm môn đệ của Người. rồi sau đó chúng ta mới sẽ là nhân chứng của Người. Nếu chúng ta tưởng rằng chính chúng ta sẽ ra đi cứu độ thế gian thì coi chừng lầm to. Chỉ có một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu. Không ai có thể làm chứng nhân nếu trước hết không là môn đệ.

Dù sao, cuộc gặp gỡ ban đầu này đã mau chóng dẫn đến hành động làm chứng đầu tiên: Anrê đi gặp em mình trước hết: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia. Câu nói nghe thấy đơn giản làm sao! Chúng ta không còn được nghe thấy âm thanh cảm xúc có thể đã dâng trào trong cõi lòng người thanh niên Do Thái dám thốt lên lời đó. Đấng Mêsia, niềm khát vọng của Israel… Thánh sử Gioan cho phép chúng ta cảm thấy điều lạ lùng trong việc Đấng Messia đọc được điều thầm kín trong lòng con người, và ngay từ giây phút đầu đã ghi dấu đậm đà trên cuộc đời những kẻ người gọi. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha tức là Phêrô? Đức Giêsu luôn biến đổi những ai đến với người. Người đặt cho họ một tên mới. Người trang bị cho họ khả năng để nhận lãnh sứ vụ mà Người sẽ sai thực hiện.

Cả ba người môn đệ đầu tiên đến với Đức Giêsu nhờ sự dẫn dắt của người khác. Điều đó có thường xảy ra cho chúng ta? Có được bao nhiêu người trên đường đời đã giúp chúng ta nhận ra Đức Giêsu…?”.

2/ “Khởi đầu của một cuộc phiên lưu lạ lùng” .

(F. Deleclos).

Có những phút giây hay những lần gặp gỡ mà người ta không bao giờ quên được. Đó là những khoảng khắc của ánh sáng hay của sự đồng cảm sâu xa sẽ mãi mãi ghi dấu và định hướng cuộc đời con người. “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười…? Năm mươi năm về sau, Gioan còn nhớ chính xác cái ngày hôm đó, khi cùng với ông bạn Anrê, ông đã được nghe tiếng người anh em bà con với Thầy mình đặt câu hỏi: “Các anh tìm gì thế?. Đó chính là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu lạ lùng. Cuộc đời của các ông từ đây sẽ rẽ sang một khúc quanh mới, một hướng đi mới (…).

Bắt gặp một cái nhìn qua đó biểu lộ cả một con người. Cảm nghiệm được nhìn nhận, được tôn trọng và được kêu gọi. Cảm thấy được trở thành chính mình và trờ nên khác, được lớn lên và tiếp tục vươn lên thêm mãi. “Thầy ở đâu? Đến mà xem”? Họ đi theo và đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Tất cả chỉ đơn giản thế thôi và gây ngỡ ngàng biết bao.

“Các anh tìm gì thế”?. Câu hỏi hệ trọng ấy không chỉ đặt ra cho những “hiện tượng hiếm hoi” trong trời đất, hay cho những nhân vật xuất chúng. Nó được dành cho tất cả chúng ta. Nó không chỉ khai sinh ra các bậc ngôn sứ và các vị thánh được tôn phong, nhưng chủ yếu mọi người tín hữu.

Ngày hôm nay, trên khắp mọi nào đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi người đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Người đã “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bộ sông Giođan .

Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. – Người chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Người ta vẫn có thể đi sát một bên

Người mà không hay không biết, vẫn có thể thấy Người mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai: “Đây là Chiên Thiên Chúa”? Tuy nhiên chỉ có những người nào biết tìm kiếm và khao khát chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt mới có thể lay động và lắng nghe. Ngoài ra còn phải có thái độ sẵn sàng để đi theo Người và đến mà xem.

Đức Tin chớm nở từ lời hỏi đáp: “Thầy ở đâu?”. Thế là bắt đầu cuộc trao đổi với Chúa. Con người còn cần phải đi theo Người, đồng hành với Vị Thầy và ở lại với Người để hiểu biết thêm”.

[Mục Lục]

Bài 4. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: CÁC MÔN ĐỆ TIÊN KHỞI

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Gioan Tẩy giả còn đứng đó với hai trong nhóm môn đồ của mình”: Về sự hiện hữu của nhóm môn đồ thường trực quanh Gioan Tẩy Giả, xem Mc 2,18 tt, Mt 11,2; 14,1; Lc 1,1; Ga 3,25. Lát nữa, bản văn sẽ xác định một trong hai môn đồ là Anrê, anh của Simon (câu 41); lai lịch của môn đồ kia vẫn còn bí ẩn. Có lẽ là “môn đồ Chúa Giêsu yêu dấu” (13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20), tức Gioan, con ông Giêbêdê, người được truyền thống cho là tác giả Tin Mừng thứ 4 và muốn giữ tính chất vô danh của mình dưới cách gọi đó.

“Hai môn đồ… đi theo Chúa Giêsu”: Lời tuyên bố của Gioan Tẩy giả đã khiến hai ngươi quyết định rời bỏ sư phụ mà theo Chúa Giêsu. Một lần nữa, như trường hợp Samuen, ơn gọi của họ đã được gợi lên cho một kẻ khác, do một người không phải là “ánh sáng”, nhưng là “chứng nhân ánh sáng” (1,8; 3,3) Chẳng một chi tiết giai thoại hoặc tâm lý, chẳng một chi tiết về nơi chốn, hoàn cảnh hay tâm tình các nhân vật người kể lã thu tóm tất cả trong một lược đồ giản đơn, với những ghi chú và đối thoại vắn gọn.

“Hãy đến mà xem, Người bảo họ”: Chúa Giêsu chẳng muốn cho một chỉ dẫn địa hình. Nói cách khác, không thể biết Chúa Giêsu “ở” đâu nếu không đích thân “đến xem” Người. Động từ hy lạp “thấy” được dùng ở đây (hoàn) không chỉ nói lên việc xem thấy thể lý (mà người ta vẫn thường diễn tả qua tiếng emblopein (ngó) như ở c.36). Nó bao hàm sự nhận thức và thấu hiểu một thực tại thiêng liêng. Nhưng nhận thức và thấu hiểu này đòi hỏi một sự dấn thân trước. Câu “Ai từ chối tin vào Con sẽ chẳng thấy sự sống” (3,36) hiểu theo ý nghĩa như vậy. Thành ra “thấy” không có nghĩa là chứng kiến từ bên ngoài một quang cảnh, nhưng chính là kết quả của cuộc hành trình đi theo Chúa Giêsu: “Phàm khi trở lại với Chúa, màn mới được cất đi ” (2Cr 3,16).

“Họ đã lưu lại với Người”: Đây là giai đoạn đầu của một cuộc sống chung sẽ được triển nở trong sự hiệp thông sâu xa nhất: Hãy lưu lại trong Ta như Ta trong các ngươi. Như cành nho không thể tự sinh trái nếu không lưu lại trong thân nho, thì các ngươi cũng vậy, nếu không lưu lại trong Ta” (15, 4).

Lúc đó khoảng chừng giờ thứ mười!: Với mỗi ưu tư đặc biệt luôn ghi chú chính xác những khoảng thời gian (4,25; 18,28; 19, 14. 20, 19), Gioan bảo lúc đó là chừng giờ thứ mười (theo lối phân chia vận hành của mặt trời thành 12 giờ từ bình minh đến hoàng hôn), tức lối 4 giờ chiều. Ghi nhận này phải chăng là một hồi tưởng cá nhân hay một chi tiết biểu tượng? Trong vài bản văn Cựu ước hay Do thái giáo đương thời, số 10 tượng trưng con số hoàn hảo, nên giờ thứ mười ở đây có lẽ là giờ của sự hoàn thành và đánh dấu khởi đầu công việc của Chúa Giêsu. Thật vậy, ở 11,9, ngày là một hình ảnh đặc trưng thời Gioan sứ vụ tại thế của Chúa Giêsu (x. 9,4t; 12,35).

“Anrê, em của Simon Phêrô, là một trong hai…”: Tên Hy lạp Andreas, cũng như tên Simon (là cách viết theo hy ngữ của tên Himéon), chứng tỏ hai anh em có nguồn gốc hy lạp. Đúng vậy, hai anh em là người vùng Bethsaiđa-Guilia, ngày nay là Et-Tell, phía đông bắc hồ Tibêria, trong đồng bằng được con sông El-Ebtebah tưới gội, thuộc quyền Phillp quận vương. Những hoài vọng- thiên sai vẫn còn sống động ở đấy Người Galilê luôn được chú ý vì lòng nhiệt thành của họ. Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đã vang dột đến miền này và ông có nhiều môn đồ người Galilê.

“Lúc ban sáng”: cách đọc này không chắc. Nhiều thủ sao đáng tin (Sinaiticus, L.W …) lại viết prôtos (premier, thứ nhất). Nếu cách đọc sau là đúng, thì câu văn muốn nói: Anrê là người thứ nhất đã tìm gặp anh của mình (idion) -Hiểu ngầm rằng người bạn của ông sau đó cũng đã tìm gặp anh của y, tức là Gioan đã dẫn Giacôbê đến và như thế là ở đây ta mặc nhiên có tên 4 môn đồ đầu tiên được gọi tên bờ hồ (theo Tin Mừng Nhất lãm). Cách đọc này có vẻ tinh vi quá! Đa số các thủ sao đáng tin khác (P.66, P.75, Sinaiticus col Úrecteur A. B. X…) lại viết là prôton (trước tiên, d’abord). cách đọc này có ý nghĩa hơn và được giải thích dễ dàng là để chỉ cuộc gặp gỡ đầu hết trước cuộc gặp gỡ ở câu 43 và 45: Trước tiên Anrê đi tìm Phêrô (nghĩa là trước lúc làm bất cứ chuyện gì khác), còn môn đồ kia làm chi, chẳng thành vấn đề. Sau cùng, hai bản dịch cổ kính nhất là bản Cựu Latinh và Cựu Syriát lại viết mano (lúc ban sáng), tương ứng với prôi trong nguyên bản.

Cách đọc này được giữ lại trong BJ (Mollat), Boismard, pernard… Cho dù ít được xác nhận, nó vẫn là tuyệt vời nhất vì xác định thời gian theo tinh thần của cả phần này, phần mà nhiều đoạn khởi đầu với một ghi chú thời gian: ngày hôm sau, lúc còn sớm hay lúc tảng sáng, Anrê vội vã đi thông báo tin vui rằng ông đã khám phá được Đấng Messia. Dẫu sao, về phương diện phê bình văn bản, cách đọc prôi quá ít chắc chắn, đến nỗi người ta phải ngạc nhiên khi thấy vài tác giả nổi tiếng chuộng nó hơn. Do đâu vậy?

Cách đọc Prôi hiển nhiên ám chỉ là người ta đã đi sang một ngày mới trong cái “tuần, khai mạc mở đầu Tin Mừng Gioan: đúng thế, các câu đi trước xác định công chuyện đã xảy ra vào lúc 4 gtờ chiều, thành thử ghi chú “lúc còn sớm” đưa về ngày hôm sau. Điều này giúp đạt được con số bảy trúng cách tính thời gian ở những trang đầu Tin Mừng Gioan, cách tính gợi lên sự đối xứng biểu tượng giữa lúc khởi đầu việc sáng tạo (trong 7 ngày) và lúc khởi đầu việc tái tạo do sự xuất hiện của Chúa Giêsu. Theo ý chúng tôi, đấy là lý do chính khiến Boismard và nhiều tác giả khác chọn cách đọc prôi thay vì protos hay prôton. Nhưng quả là luôn luôn nguy hiểm nên chỉ dựa vào những giả thuyết thần học để chọn một cách đọc cho bản văn. Trên quan điểm khoa học, cách đọc prôi hầu như không thể chấp nhận được. Nhưng phải chăng vì thế mà phải loại bỏ sự đối xứng thật hấp dẫn giữa Gioan và Sáng thế, sự đối xứng được tăng cường do việc Tin Mừng thứ 4 cũng chấm dứt bằng một tuần lễ được tính toán kỹ lưỡng? (Ta có thể so sánh thêm: cuối tuần đầu tiên của sứ vụ, “Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang người” bằng việc làm phép lạ đầu tiên trong 7 dấu chỉ thánh sử kể lại; cũng thế, cuối tuần sau cùng của sứ vụ trần gian. Chúa Giêsu “biểu lộ vinh quang” bằng việc hoàn thành dấu chỉ thứ 7, dấu chỉ lớn nhất, là cuộc phục sinh của Người): phải chăng phải loại bỏ tính cách biểu tượng tuyệt vời đó chỉ vì lý do là cách đọc prôi không thể chấp nhận? Vài tác giả hình như nghĩ vậy, nên đành hy sinh cách đọc chắc chắn hơn. Tuy nhiên, chúng tôi thiết tưởng rằng có thể loại bỏ cách đọc prôi để khỏi cưỡng ép bản văn mà vẫn giữ được lối biểu tượng như ta vừa trình bày.

Đúng thế, dù đọc protos hay prôton, thì cũng phải có một quãng thời gian giữa câu 39 là 43. Hình như Anrê và người môn đồ vô danh đã đàm thoại lâu giờ với Chúa Giêsu, khá lâu đủ để có được xác tín hồ hởi rằng Chúa Giêsu là Đấng Messias. Thế mà ta biết cuộc đàm thoại đã chỉ bắt đầu từ 4 giờ chiều và, đàng khác, rằng ngày tiếp theo chỉ bắt đầu 2 giờ sau đó (vì ngày hôm sau, theo người Do thái đương thời, là luôn bắt đầu lúc mặt trời lặn). Thành ra thực là hữu lý khi giả thiết cuộc đàm thoại đã kéo dài trong đêm khuya và nhu vậy giai thoại tiếp theo liên quan đến Anrê và Simon có lẽ đã xảy ra vào sáng hôm sau. Và lúc đó Anrê vội vàng tìm anh trước khi làm việc gì khác (cái chữ trước tiên này quay về prôton là cách đọc đáng tin hơn cả). Như vậy ta có thể giữ được cách tính 7 ngày, dù phải loại bỏ cách đọc lúc ban sáng (prôi) của BJ.

“Chúng tôi đã gặp Đức Messia”: “Gặp (heuriskein) sẽ được lồng nhiều lần trong phần này và phần kế tiếp (ch.2-4). Anrê “gặp” Phêrô, báo với ông rằng họ đã “gặp” Đấng Messia; cả hai gặp” Philíp, Philíp lại gặp Nathanaen và báo tin là mình đã “gặp” Đấng Messia. Việc lặp lại cùng một động từ để diễn tả một thực tại hoàn toàn khác với ý nghĩa thứ nhất của động từ, chứng tỏ một cách nào đó sự nghèo nàn của ngữ vựng Gioan. Tuy nhiên việc này hình như muốn ngụ ý: sự gặp gỡ và khám phá Đấng Messia khiến cho những ai đã gặp được Người đều muốn làm cho những kẻ mình gặp sau đó cũng khám phá ra Người. Ở trong Tân ước, chữ Messias (hy hóa chữ Mâsiah) chỉ được Gioan dùng nơi đây và 4,25 thôi. Nhưng thì thánh sử dịch ra Hy lạp là Christos. “Ngươi sẽ được gọi là Kêpha”: Kêphas (hy hóa chữ kêphâ, tảng đá) là một tên biểu tượng mà ý nghĩa sẽ được hiện rõ về sau. Cũng như chữ rabbi (c.38) và Messias (c.41), tên của Phêrô được trích dẫn bằng tiếng Aram một cách ngoại thường, khiến chợt trong đoạn văn này đã có đến 3 tiếng Aram. Ta có cảm tưởng là Gioan suy nghĩ bằng tiếng Aram hay ít nhất quen với những thành ngữ Aram.

KẾT LUẬN

Trong trình thuật này có các yếu tố chính của một cuộc trở lại: sự gặp gỡ với đích thân Chúa Giêsu (chứ không phải là một trần thuyết về (Chúa Kitô), sự khám phá nơi Người một con người có cái gì khác hẳn, và cuối cùng là sự thay đổi vận mạng.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1/ “Các ngươi tìm gì? (1,38). Trong Tin Mừng thứ 4, đây là lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu: một câu hỏi. Cũng là lời đầu tiên Người ngỏ với chúng ta. Nó đưa chúng ta về lại với chính mình, mời gọi, chúng ta sáng suốt, tự do lựa chọn. Chúa Giêsu không để ta đi theo Người lâu ngày chỉ vì lời chứng của một kẻ khác (dù là của Gioan Tẩy giả), vì hiếu kỳ hay vì thói quen; Người muốn ta lưu tâm, ý thức, và vì thế Người hỏi ta: “Các người tìm gì?”. Dĩ nhiên người biết ta tìm gì, nhưng trước khi trả lời những thắc mắc hay khát vọng của ta, Người bắt ta hãy ra khỏi sự lãnh đạm, vô tình tự nhiên. Câu hỏi đầu tiên Hội Thánh đặt cho ta khi lãnh bí tích Rửa tội cũng tương tự: “con xin gì?” và ta đã thưa “Xin đức tin”. Đó cũng là điều là hai môn đồ đã trả lời tự thâm tâm khi muốn đi theo Chúa Giêsu đến nơi ở củ a Người.

2/ “Họ thưa Người: Rabbi, Ngài ở đâu?”. Lờl đáp trả của ta cũng phát biểu dưới hình thức câu hỏi. Nhưng một điểm căn bản bây giờ đã sáng tỏ: chúng t.a tìm nơi Người lưu trú. Người là ai, chúng ta còn chưa biết hay chúng ta chỉ lờ mờ linh cảm: ít nhất là một vị thầy. Ta trực giác tiên khởi của ta phải được xác định hay đào sâu hơn; việc tiếp xúc đầu tiên phải được bén rễ sâu trong một mối thân tình càng lúc càng đậm. Kẻ đối thoại gặp gỡ trên đường trở thành vị thầy mà ta thăm hỏi nơi cư trú, mà ta muốn đến làm môn đồ. Trước hết, ta phải đi theo Người tới nơi Người ở đã, rồi con người của Người sẽ được mặc khải cho ta.

3/ Sau khi theo Chúa Giêsu và ở lại bên Người một ngày, Anrê đã thấy, đã gặp được kẻ ông đi tìm: không phải một Rabbi, nhưng là Đấng Messia. Ông chẳng giữ riêng cho mình khám phá đó, nhưng trở thành tông đồ thừa sai cho anh và đem anh tới gặp Chúa (c.42). Không một tranh luận nào giữa hai anh em, không một lý luận nào của Anrê nhằm thuyết phục Simon, nhưng chỉ là một lời quả quyết đơn giản. Như Anrê đối với Gioan Tẩy giả, Simon tín nhiệm vào em mình. Như các môn đồ, đức tin của ta vào Chúa Giêsu cuối cùng đặt cơ sở trên một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa; nhưng đức tin đó luôn khởi phát từ đức tin của một người anh em, của một cộng đoàn gia đình và Giáo Hội, từ sinh chứng của một người ta tín nhiệm và mến yêu. Tín nhiệm và đức tin là hai chữ cùng một gốc.

4/ “Chúa Giêsu nhìn ông và bảo: Ngươi là Simon, con của Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá”(c.42). Một cách dễ dàng, tức khắc, cái nhìn của Chúa Giêsu thấu suốt nơi sâu thẳm của con người mới đến. Ơn gọi của kẻ này ngay từ phút đầu tiên đã được xác định: ông đổi tên và như vậy, theo quan điểm Thánh Kinh, đổi cả nhân cách, cả con người. Ông trở thành kẻ Chúa Giêsu gọi tên Phêrô (Đá). Đó là quyền ưu tiên tuyệt đối của lời Chúa mời gọi trên tất cả những thiên tư tự nhiên hay giải thích chủ quan của con người. Cũng thế, ngay từ lời đầu tiên Người ngỏ với ta. Chúa Kitô biến đổi ta tận gốc và, bắt lấy tương lai ta ngay tức khắc và toàn diện mà có lẽ ta còn chưa ý thức. Từ những Simon, những cá nhân mang một nhãn hiệu như mọi người, chúng ta nhận đức tin gọi đích thực, cá tính độc đáo và sứ mệnh đặc biệt của ta. Chúng ta trở thành kẻ phục vụ nơi người: Kêpha, nghĩa là Đá, là nền tảng và rường cột của Giáo Hội. Ai trong ta dám đoán trước được điều này? Khi gọi ta, Chúa Giêsu mặc khải cho ta biết đối với Ngài ta là ai, có thể là ai, phải là ai: là người tốt hơn và đẹp hơn ta tưởng.

5/ Đã lần nào ta có ý nghĩ sẽ đưa một người đến gặp gỡ Chúa Giêsu chưa? Như Gioan Tẩy Giả, ta biết Chúa Giêsu là ai; như Anrê, ta đã gặp Đấng Cứu thế. Ta có ưu tư để đừng giữ riêng cho ta sự khám phá này không? Để có thể mời gọi một người trong anh em ta, có lẽ Chúa đang chờ đợi ta đem họ đến gặp Người.

[Mục Lục]

Bài 5. LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA GỌI

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I/ DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Sau Mùa Giáng Sinh, Phụng vụ của Hội Thánh triển khai những hệ quả hay hoa trái của mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm Ngôi Lời đã sinh ra làm người và ở giữa loài người để đem hạnh phúc cho mọi người. Một trong những hệ quả hay hoa trái ấy là nhiều người được Thiên Chúa mời cộng tác với Người trong công trình cứu chuộc. Thế nhưng muốn nhận được lời mời thì phải biết lắng nghe tiếng Chúa gọi.

Các bài Sách Thánh của Chúa Nhật II Thường Niên hôm nay tập trung vào ơn gọi mà Thiên Chúa dành cho Sa-mu-en, Gio-an, An-rê và Phê-rô và tất cả các Ki-tô hữu. Mọi người chúng ta đều được Thiên Chúa gọi và chọn làm ngôn sứ của Thiên Chúa và làm môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa không chỉ gọi chúng ta một lần, mà Người gọi chúng ta nhiều lần, trong mỗi ngày, mỗi giờ. Vì thế việc lắng nghe tiếng Chúa gọi là vô cùng quan trọng. Có nghe được tiếng Chúa gọi, chúng ta mới có thể đáp lại tiếng gọi ấy một cách tương xứng.

II/ LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

1/ Trong bài đọc 1 (1 Sm 3,3b-10.19): Thiên Chúa gọi ông Sa-mu-en.

2/ Trong bài đọc 2 (1 Cr 6,13c-15a.17-20): Ý nghĩa của thân xác con người.

3/ Trong bài Tin Mừng (Ga 1,35-42): Các môn đệ đầu tiên.

III/ KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

1/ Dung mạo của Thiên Chúa trong ba bài Sách Thánh:

a/ Thiên Chúa mà Sách Sa-mu-en quyển thứ nhất (1 Sm 3,3b-10.19) tường thuật là một Đấng Thiên Chúa đã thân hành đến gặp cậu bé Sa-mu-en ban đêm trong khi cậu ngủ và gọi cậu bé nhiều lần, cho đến khi cậu hiểu ra rằng đó là tiếng gọi của Thiên Chúa và có lời đáp trả thỏa đáng: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe!” Dĩ nhiên là ngôn sứ Ê-li có vai trò rất quan trọng trong việc giúp Sa-mu-en nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa và biết đáp trả tiếng gọi ấy một cách đẹp lòng Thiên Chúa.

b/ Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô (1 Cr 6,13c-15a.17-20) muốn cho tín hữu Cô-rin-tô và hết thẩy các tín hữu nhận biết là một Đấng Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết và cũng sẽ làm cho tất cả mọi người sống lại. Vì thế Thiên Chúa có quyền làm chủ cả hồn cả xác chúng ta, vì Người “đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” và đã làm cho chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Do đó cả hổn cả xác chúng ta không còn thuộc về chúng ta nữa mà đã thuộc trọn về Thiên Chúa đã là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Chúng ta chỉ có thể dùng thân xác mình mà phụng sự Thiên Chúa chứ không được dùng thân xác mà gian dâm vì gian dâm là tội nặng vừa xúc phạm đến chính mình vừa xúc phạm đến Thiên Chúa.

c/ Thiên Chúa mà Thánh Gio-an (Ga 1,35-42) muốn giới thiệu với thế giới là Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng được Gio-an Tiền Hô giới thiệu với hai môn đệ thân tín (nhất) của ông là An-rê và Gio-an. Gio-an Tiền Hô giới thiệu Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” hàm ý muốn nói: Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng có sứ mạng hiến dâng mình làm của lễ toàn thiêu thay cho nhân loại để cứu chuộc nhân loại. Người bắt đầu thực hiện sứ mạng ấy bằng việc chiêu mộ các môn đệ. An-rê và Gio-an là hai môn đệ đầu tiên. Kế đến là Si-mon được anh mình là An-rê đem đến giới thiệu với Đức Giê-su và đã được Chúa Giê-su chấp nhận và đổi tên cho ông thành Phê-rô (nghĩa là Đá).

2/ Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh:

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta làm ngôn sứ và làm môn đệ và trông đợi ở mỗi người chúng ta lời đáp trả tương xứng.

Thiên Chúa muốn chúng ta nhận ra Người, nghe thấy tiếng gọi của Người (trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta) mà đáp trả bằng cách bước theo Người, thi hành sứ mạng Người giao phó như Sa-mu-en, Gio-an, An-rê và Phê-rô.

IV/ SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY

1/ Sống với Chúa như con cái sống với cha mẹ, như đệ tử sống với Thầy, như kẻ được gọi và được chọn với Đấng gọi và chọn: Sống các mối tương quan trên trong tâm tình yêu mến, kính trọng và gắn bó mật thiết.

2/ Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là nhận ra tiếng Chúa gọi và đáp lại tiếng gọi ấy như Sa-mu-en: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”

Để nghe được tiếng Chúa, chúng ta cần

a/ tỉnh thức,

b/ thinh lặng nội tâm, vì Thiên Chúa chỉ nói trong thinh lặng như Chân Phước Tê-rê-xa thành Cal-cut-ta đã nhắn nhủ.

c/ khả năng phân biệt và chọn lựa lời mời gọi của Thiên Chúa và từ khước lời mời gọi của tạo vật hay của bản thân mình tức lời mời gọi của dục vọng, của cải, quyền lực và vinh hoa trần thế.

- Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay còn là tin vào lời giới thiệu của Gio-an Tẩy Giả và của các ngôn sứ xưa và nay mà tìm đến và ở lại với Chúa Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” như An-rê và Gio-an: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.”

Để gặp gỡ và ở lại với Chúa Giê-su, chúng ta cần

a/ một tấm lòng đơn sơ, khát khao,

b/ sự nhẫn nại và

c/ chấp nhận cuộc phiêu lưu mà Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta.

V/ CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

1/ «Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trên thế gian để họ biết lắng nghe Lời Chúa mà sống lương thiện và đạo đức xứng danh con người là tạo vật đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Người.

X/ Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ/ Xin Chúa nhận lời chúng con.

2/ «Sa-mu-en thưa: “Dạ, con đây!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người biết đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa như cậu bé Sa-mu-en.

3/ «Các anh tìm gì thế? – Thưa Thầy, Thầy ở đâu? - Đến mà xem – Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, có được mối tương quan và sự hiểu biết riêng tư, thân mật và sâu đậm với Thiên Chúa!

4/ «Thưa anh em, thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các bạn trẻ công giáo cũng như không công giáo, để họ biết quý trọng, giữ gìn và bảo vệ thân xác mình cho xứng danh là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

[Mục Lục]

Bài 6. Ở LẠI VỚI CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trên các chương trình tivi đều có mục quãng cáo. Sản phẩm quãng cáo thì cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền.Thông tin quãng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh.Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy.Quãng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau.Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó,tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.

Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu.Có ba lời giới thiệu tiêu biểu. Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu,làm đẹp Ta mọi đàng”( Mt 4,17). Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ” Ai thầy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9) Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “ Đây là Chiên Thiên Chúa.Đây Đấng xoá tội trần gian. . Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi …Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần. ” ( x.Ga 1,29 –34). Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđêa đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình và lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài.Gioan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình,nhưng nhìn thằng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.

Phúc Âm hôm nay kể câu chuyện: “Thấy Đức Kitô đi ngang qua, ông lên tiếng nói: đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Kitô” (Ga 1,36-37). Bấy giờ Gioan rất nổi tiếng. Những người Do thái ở Giêrusalem cử các Thầy Tư tế và Lêvi đến hỏi xem liệu ông có phải là Đức Kitô, là Êlia hoặc ngôn sứ không (Ga 1,19-23). Gioan trả lời trung thực: “Không! Tôi không phải là Đức Kitô” (Ga 1,20). Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa (1,23). Đức Kitô là Đấng đến sau ông, cao trọng hơn ông vì có trước ông (1,30). Đấng ấy được Thánh Thần xức dầu (1,33), và sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa (1,33; Mt3,11). Đấng ấy cao trọng đến nỗi ông không đáng cởi dây giày cho Ngài (1,27). Nhiệm vụ của ông là làm cho mọi người và cả các môn đệ của ông hiểu đươc điều đó. Gioan mong ước khi có dịp sẽ giới thiệu cho các môn đệ về vị Thầy đích thực mà họ cần phải theo. Bởi thế, khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hiểu ý thầy, hai môn đề liền đi theo Chúa Giêsu trong hân hoan. Thay vì nuối tiếc, Gioan đã hạnh phúc hối dục họ lên đường. Nếu hai môn đệ không muốn theo Chúa mà cứ nấn ná ở lại với Gioan thì giáo dục tôn giáo của Gioan đã thất bại. Nếu hai môn sinh cứ đòi ở lại với Gioan là dấu chứng Gioan chỉ nói về mình, gây ảnh hưởng cho mình. Lên đường theo Chúa như một khám phá mới của hai môn sinh là kết quả thành công của Gioan trong sứ mạng làm người dọn đường cho Chúa.

Chúa Giêsu quay lại và hỏi: Các anh tìm gì thế? Hai môn đệ đã không đi “tìm gì” mà là tìm một Con Người. Họ đi tìm Đức Kitô. Họ mang nặng nổi khát khao đi tìm một trái tim, một vị thầy. “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu hỏi ấy là câu hỏi muốn hiểu, muốn tìm đến và muốn ở lại với Thầy. Chúa Giêsu không trả lời là Ngài ở nơi này nơi kia và cũng không mời họ đến thăm chơi. Chúa nói “hãy đến mà xem” rồi sẽ biết. “Đến mà xem” là lời mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ thân thiết. Trăm nghe không bằng mắt thấy “cứ đến mà xem” cũng là câu nói Philipphê thuyết phục Nathanael (Ga 1,46).Thánh sử Gioan kết thúc câu chuyện các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô bằng hình ảnh: “Họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người” (1,39).

Chỗ ở của Chúa Giêsu có gì hấp dẫn mà giữ chân các ông ở lại? Đầy đủ tiện nghi và sung túc chăng? Chắc chắn là không rồi, vì Chúa đã từng nói:” Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Rày đây mai đó nên nơi Chúa ở là “khách sạn ngàn sao”, chẳng có gì hấp dẫn như biệt thự hay khách sạn mấy sao. Sự hấp dẫn các môn đệ chính là con người Chúa Giêsu. Chính cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài đã hấp dẫn họ và họ nhận ra Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, vị Thầy mà họ đáng theo.

Chúa kêu gọi các môn đệ, trước hết để họ “ở lại với Ngài” trong bầu khí huynh đệ thân tình (x. Ga 1,35-39), rồi Ngài mới sai họ đi thi hành sứ vụ. Yêu thương nhau là một dấu chỉ, là chứng từ cốt yếu, là đòi hỏi tiên quyết và đồng thời cũng là điều kiện cơ bản của người môn đệ Đức Giêsu.“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Đi tìm con người Đức Kitô là theo Ngài, thuộc về Ngài, ở với Ngài. Các môn đệ vui mừng hân hoan, họ muốn chia sẽ với người thân yêu nên khi trở về, Anrê gặp em là Simon, nói với em về Đấng mà mình đã gặp và dẫn em đến diện kiến Chúa. Simon được Chúa đổi tên thành Phêrô. Trên đá tảng Phêrô, Chúa xây Hội Thánh và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. Một cuộc gặp gỡ. Một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, những ai đã gặp Người đều thay đổi dần cuộc đời mình.

Gioan Tẩy Giả là mẫu mực cho người tông đồ hôm nay. Giới thiệu Chúa còn mình thì lặng lẽ rút lui để Chúa lớn lên. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng được trao ban. Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương.Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương.Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.

Lời giới thiệu của Gioan Tẩy giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng.Dung mạo đúng nhất của Thiên Chúa là tình yêu thương “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “ Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Để giới thiệu Chúa, tôi phải biết Chúa. Bài học đầu tiên của các môn đệ là “ở lại với Chúa”. Chỉ khi sống với Chúa mới biết Chúa. Vì thế, để giới thiệu về Chúa, phải biết Chúa. Để biết Chúa, chỉ có con đường duy nhất là sống với Chúa. Sống với Chúa chính là chuyên chăm học hỏi, suy niệm Lời Chúa và chiêm nghiệm trước Thánh Thể mỗi ngày để trở nên người giới thiệu Chúa cách trung thực và chính xác cho người khác.

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy sự từ bỏ của Gioan và hai môn đệ mà xét lại bản thân. Con đang giới thiệu Chúa hay dùng Chúa để mình được lợi. Con đang theo Chúa hay chỉ theo người của Chúa. Xin cho con luôn chọn Chúa qua những chọn lựa nhỏ bé nhiều lần trong ngày để Chúa chiếm trọn cuộc sống con và để con thông hiệp vào cuộc sống Chúa nhờ đó con được ở lại với Chúa.

Và Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng mỗi ngày trong đời con. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn.Amen.

[Mục Lục]

Bài 7. Đây là Chiên Thiên Chúa

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nếu Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, lời Chúa mời gọi chúng ta sống sao cho xứng đáng làm con Thiên Chúa, thì Chúa nhật này, lời Chúa mời gọi chúng ta đặt mình vào vị trí của nhóm môn đệ Gioan Tẩy Giả, nhất là của chính Gioan để thấy được kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Tin Mừng hôm nay trình bày Gioan Tẩy Giả thật đúng với sứ mạng của ông là chỉ cho mọi người biết Đấng Cứu Thế : Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 35). “Chúa Giêsu đang đi và Gioan nói”, là một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Năm Phụng vụ mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh : “Đây là Chiên Thiên Chúa“(Ga 1, 35).

Đây là Chiên Thiên Chúa

Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là nhân loại chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những người sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa ; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi và đây là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con của Ngài tới làm giá chuộc tội cho toàn dân ( Ga 3,16 ), vì Người là đầu và tất cả mọi sự ở trong Người. Để tất cả chúng ta sống trong Người, Người đã vui lòng chịu chết và hiến tế vì chúng ta, Người đã chết thay cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta. Người là Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.

Gioan là mẫu người tìm Chúa và giới thiệu Chúa

Gioan Tẩy Giả là một tiên tri, biết nhận ra Thiên Chúa giữa loài người. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa mặc khải trong xác phàm, Lời làm người để cứu chuộc nhân loại. Gioan là tiếng, ông là người lồng tiếng truyền đi sứ điệp mà ông đã được ủy thác. Sứ điệp Gioan truyền là một công thức tuyệt đẹp và độc đáo, được lặp đi lặp lại ở tất cả các Bí tích Thánh Thể, được thể hiện dưới ánh mắt thân mật và yêu thương nhất của Thiên Chúa : “Đây là Chiên Thiên Chúa“(Ga 1, 35). Đây sự tuyển chọn Abraham và giao ước với nhà Đavid, đây là người Tôi Tớ đau khổ và là Chiên Vượt Qua. Đây là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Đây là Con Thiên Chúa.

Gioan không nói như là tiếng vọng của tiên tri Isaia, nhưng ông đã viết lời tiên tri một lần nữa và tham gia việc thực hiện lời hứa. Ông đã sống đến cùng ơn gọi của mình là chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa.

Noi gương Gioan sống chứng nhân

Con người tìm Thiên Chúa, Thiên Chúa đáp trả, con người lại tiếp tục giới thiệu Chúa cho tha nhân, nên câu hỏi :”Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). là câu hỏi mà hai anh em nhà Anrê và Simon Phêrô sau khi được thầy Gioan giới thiệu đã hỏi Chúa. Khuynh hướng tự nhiên nơi tâm hồn con người là đi tìm Chúa, và Thiên Chúa luôn luôn mau mắn đáp trả, mời gọi con người đến gặp Người: “Hãy đến mà xem” (Ga 1, 39). .

Hai chàng thanh niên hỏi, rồi một câu trả lời có tính cách như là một lời mời gọi. Khi nghe những lời chỉ dẫn đó, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả liền theo Chúa Giêsu. Phải chăng đây là một biến cố đầy ý nghĩa? Khi Chúa Giêsu hỏi : “Các ngươi tìm gì?” (Ga 1, 38) thì hai môn đệ trả lời cũng bằng một câu hỏi: “Thưa Thầy, thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). Và Chúa Giêsu trả lời : “Hãy đến mà xem“. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười (Ga 1, 39). Họ trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đến lượt Anrê, Anrê lại dẫn anh mình là Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.

Khi trình bày lại cuộc gặp gỡ nầy với Chúa Giêsu, phụng vụ ngày hôm nay muốn chứng tỏ điều trọng nhất trong đời sống chúng ta. Hỏi là kết quả của cuộc kiếm tìm. Con người đi tìm Thiên Chúa. Con người, tận trong thâm tâm, hiểu rằng cuộc kiếm tìm này là định luật nội tại của cuộc sống. Con người đi tìm đường đi trong thế giới hữu hình, và qua thế giới hữu hình, con người đi tìm cái vô hình trong cuộc hành trình thiêng liêng của mình.

Mượn lời vịnh gia, mỗi người trong chúng ta có thể thân thưa với Chúa : “Lạy Chúa, con đi tìm nhan thánh Chúa; xin đừng ẩn mặt xa con” (Tv 27. 26, 8-9). Mỗi người trong chúng ta có một lịch sử cá nhân riêng và mang trong mình khát vọng muốn thấy nhan Thiên Chúa, một ước vọng mà người ta cảm thấy cùng với việc khám phá thế giới tạo vật.

Chúng ta hỏi Chúa : “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). Giáo Hội trả lời cho chúng ta mỗi ngày rằng: Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể, bí tích của sự chết và sống lại, trong và nhờ bí tích này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong lịch sử con người.

Câu trả lời cho câu hỏi: “Thưa Thầy, thầy ở đâu?” Còn cần phải được nghe như sau : Thầy ở trong tất cả mọi người được cứu chuộc. Ðúng vậy, Chúa Kitô, Ðấng có những lời ban sự sống đời đời, Ðấng là “Ðầu của Dân mới và phổ quát của tất cả những con cái của Thiên Chúa” (LG số 13), hiện diện trong dân Người. Gioan đã làm chứng và giải thích về sự nhận biết và tôn thờ cũng như đón nhận Lời để thông phần vinh quan với Lời ; hành động đức tin biến chúng ta thành người tôi tớ hợp nhất với người môn đệ dưới chân Thánh Giá : “Đây là Chiên Thiên Chúa “(Ga 1, 35). Đến lượt chúng ta, là thành phần của Giáo hội, thành phần sống động và có trách nhiệm, hãy là những đồ đệ và là những chứng nhân của Chúa Kitô, Ðấng mạc khải Thiên Chúa Cha. Hãy sống trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, Ðấng ban sự sống. Amen.

[Mục Lục]

Bài 8. GIỚI THIỆU CHÚA CHO MỌI NGƯỜI

  1. Lam Thy ĐVD

Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 61) khẳng định: “Ta không thể giữ riêng cho ta các lời có sự sống đời đời từng được ban cho ta nhờ cuộc gặp gỡ của ta với Chúa Giê-su Ki-tô: chúng được dự kiến dành cho mọi người, mọi người đàn ông và mọi người đàn bà. Mọi người ngày nay, bất luận biết hay không biết, đều cần sứ điệp này. Cũng như vào thời tiên tri Amos, xin Chúa làm trổ sinh giữa chúng ta lòng thèm khát lời Chúa (xem Am 8:11). Trách nhiệm của chúng ta là phải nhờ ơn Chúa, chuyển giao cho người khác điều chính chúng ta đã tiếp nhận được.”

Ngay từ thời Cựu Ước, các ngôn sứ đã giữ một vai trò quan trọng trong việc giới thiệu Chúa cho dân được tuyển chọn It-ra-en, là một vườn nho mà giai đoạn đầu trổ sinh toàn một thứ nho dại (Is 5, 4-6). Và cũng nhờ các ngôn sứ, tiên tri hết lòng cầu xin mà đã nhiều lần Thiên Chúa ban hồng ân cứu độ cho dân Người. Sang đến Tân Ước, thì ngay từ bước khởi đầu công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su Ki-tô đã được Thánh Gio-an Tẩy Giả giới thiệu cho mọi người qua biến cố Đức Giê-su chịu Phép Rửa trên sông Gio-đan. Tiếp theo, Thánh Gio-an Tiền Hô còn trực tiếp giới thiệu cho các môn đệ thân tín của ngài, và sẵn sàng để các môn đệ đi theo làm môn đệ Đức Giê-su. Một minh họa sống động:

Thánh Gio-an Tiền hô đang đứng bên bờ sông Gio-đan với các môn đệ, ngài vừa trông thấy Đức Giê-su đi ngang qua đã vội lên tiếng giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ngay lập tức, hai môn đệ của thánh nhân liền đi theo Đức Giê-su. Một trong hai môn đệ ấy là An-rê, anh ông Si-mon (Phê-rô). Sau khi An-rê gặp Đức Giê-su, ngài liền nói với em mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô), rồi ông dẫn em mình đến giới thiệu với Đức Ki-tô (Ga 1, 35-42). Nói đến An-rê, là nói đến người “đã thấy, đã tin và đã làm chứng cho Đấng Cứu Độ”. Khởi đầu, An-rê là môn đệ của thánh Gio-an Tẩy Giả, được ngài giới thiệu với Đức Ki-tô. Và tiếp liền theo đó, An-rê đã liên tục làm chứng nhân sống cho Đấng mà ngài đã thấy và đã tin. Có thể là rất nhiều lần, nhưng Thánh Kinh chỉ ghi lại 3 lần nổi bật nhất:

* Lần thứ nhất, khi nghe thầy mình là thánh Gio-an Tẩy Giả giới thiệu “Đây là Chiên Thiên Chúa”, thì ngay lập tức, An-rê cùng với một môn đệ khác của thánh Gio-an liền đi theo Đức Giê-su, rồi về giới thiệu với em mình là Si-mon Phê-rô và dẫn tới với Đức Ki-tô.

* Lần thứ hai là dịp Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất: Thấy rất đông dân chúng đến với mình, Đức Ki-tô liền hỏi thử ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Trong khi Phi-líp-phê còn đang lúng túng, thì An-rê đã mau mắn thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Không ai (kể cả Phi-lip-phê và An-rê) có thể ngờ chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, đã giúp tới 5.000 người (không kể đàn bà và trẻ con) được ăn no nê, mà còn dư tới 12 thúng đầy những miếng bánh thừa người ta ăn còn lại (Ga 6, 5-13).

* Lần thứ ba, khi Đức Giê-su trở lại Giê-ru-sa-lem lần cuối, có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. An-rê lại giới thiệu họ với Đức Ki-tô. Chắc chắn Đức Ki-tô đã rất hài lòng về An-rê, bởi vì sau đó chính Người đã nói: “phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12, 32).

Rõ ràng là An-rê có một niềm tin rất vững vàng khi được gặp Chúa, nhưng còn hơn thế nữa, vì thánh nhân đã biết biến niềm tin đó thành hành động. Nếu chỉ tin suông, tin một cách chung chung “ai sao tôi vậy”, thì ai cũng có thể làm được; nhưng thánh An-rê Tông đồ đã không như thế, mà ngài đã sống đức tin một cách rất cụ thể: làm chứng nhân sống để giới thiệu cho mọi người biết Người mà mình đã thấy và đã tin: Đức Giê-su Thiên Chúa. Tông Huấn Lời Chúa (số 18) đã khẳng định: “Trọn lịch sử cứu rỗi đã lần hồi chứng minh cho mối liên kết sâu xa giữa Lời Chúa và đức tin, một đức tin vốn phát xuất từ cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô”. Thánh An-rê đã gặp gỡ Chúa Ki-tô mà Người chính là Ngôi Lời nhập thể, là Lời Chúa đích thực, nên có thể nói đức tin của thánh nhân là một “Đức tin đến từ điều nghe được, và điều nghe được đến từ Lời Chúa Ki-tô” (Rm 10, 17). Quả thực thánh nhân đã “Đáp ứng nhân bản thích đáng đối với vị Thiên Chúa đang nói chính là đức tin” (T/H Lời Chúa, số 18).

Vì đã tin, nên thánh An-rê đã rất nhiệt thành giới thiệu Chúa Ki-tô với mọi người. Giới thiệu Chúa với anh em cũng chính là rao giảng Tin Mừng một cách cụ thể và thiết thực, để rồi từ “chính việc rao giảng Lời Chúa đã phát sinh ra đức tin, nhờ đó, ta đồng tâm nhất trí với chân lý đã được mạc khải cho ta và ta hoàn toàn tín thác vào Chúa Ki-tô” (ibid). Quả thật “…đức tin mang dáng dấp một cuộc gặp gỡ với Đấng ta tín thác trọn đời ta cho Người” (ibid). Vậy thì tại sao người Ki-tô hữu chúng ta lại không mở rộng trái tim, mở rộng cửa lòng ra đón tiếp để được gặp gỡ Người? Khi đã được gặp gỡ Đức Ki-tô như thánh An-rê, chắc chắn một điều chúng ta sẽ có một đức tin vững mạnh, mà “Đức tin là hy vọng” (Tđ “Spe Salvi”), nên khi chúng ta tin và phó thác đời mình trong tay Chúa, chúng ta sẽ tràn trề hy vọng được nhận ơn Cứu Rỗi của Đấng mà chúng ta đã tin. Một cách cụ thể, chúng ta tin và chúng ta hành động, bởi “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc.2, 17).

Vâng, và “vì thế, hành vi đức tin của ta cùng một lúc vừa có tính bản thân vừa có tính Giáo Hội” (T/H Lời Chúa, số 18). Nói một cách dễ hiểu thì hành vi đức tin của chúng ta cùng một lúc có 2 chiều kích: chiều kích cá vị (riêng bản thân mình) và chiều kích cộng đồng (chung cả Giáo Hội). Cụ thể hơn nữa, vì đối tuợng mà chúng ta tin là Thiên Chúa Tình Yêu nên khi chúng ta “nhận về” đức tin thì chúng ta cũng phải “cho đi” (chia sẻ) đức tin ấy cho anh em. Vâng, “đức tin không phải là thành tựu của các cá nhân cô lập; nó không phải là một hành vi mà ai đó có thể tự mình diễn xuất, mà đúng hơn, nó là một điều cần được tiếp nhận bằng cách đi vào hiệp thông Giáo Hội, một hiệp thông chuyển giao ơn phúc Thiên Chúa.” (Tđ Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 41).

Ôi! Lạy Chúa! Xin ban đức tin cho chúng con để chúng con có thể noi gương thánh An-rê Tông đồ, luôn sẵn sàng đến với anh em – nhất là những anh em đang gặp thử thách trong sức khoẻ hay trong đời sống – để cùng nhau chia sẻ đức tin mà mình đã coi là nguồn sống duy nhất của moi Ki-tô hữu. Lạy Mẹ Maria! Mẹ là “Mẹ Lời Chúa” và cũng là “Mẹ đức tin”! Cúi xin Mẹ dạy chúng con hai tiếng “xin vâng” như Mẹ đã thực hiện trong suốt cuộc đời của Me nơi trần thế, để chúng con luôn biết “lắng nghe và suy nghĩ trong lòng” Lời Chúa, ngõ hầu chúng con có thể giới thiệu Lời Chúa cho mọi người như thánh An-rê Tông đồ thủa xưa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 9. Giới thiệu

Một thủ tục đầu tiên, hay đúng hơn, một nghi thức đầu tiên mà trong bất cứ buổi hội họp hay một bữa tiệc lớn nhỏ nào người ta vẫn thường làm, đó là giới thiệu những người hiện diện, nhất là giới thiệu những chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã giao hằng ngày cũng vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường giới thiệu nhau. Như vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất cả chúng ta đều biết mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau.

Trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời giới thiệu này chứng tỏ Gioan biết Chúa Giêsu là ai và cũng chứng tỏ ông ý thức sứ mệnh tiền hô của mình, ông đã chỉ lối cho hai môn đệ đến gặp Chúa Giêsu. Đây là lời giới thiệu trung thực, đầy can đảm và có mãnh lực thôi thúc hai môn đệ đi theo Chúa.

Hai môn đệ ấy, một người là Anrê, còn người kia, tuy Tin Mừng không nói đích danh, nhưng chúng ta biết đó là Gioan, tác giả bài Tin Mừng này, bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông thường giấu tên mình. Họ đến nói chuyện với Chúa, chúng ta không biết Chúa nói gì với hai ông và hai ông nói gì với Chúa, chỉ biết rằng sau khi tiếp xúc với Chúa ra về, hai ông đã biểu lộ lòng tin: tin nhận Chúa là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế, và lòng đầy phấn khởi, quyết dấn thân theo Chúa không điều kiện.

Ngày hôm sau, ông Anrê lại đưa em mình là Simon đến gặp Chúa. Vừa gặp Simon, Chúa đổi ngay tên cho ông là Phêrô. Trong truyền thống của Do thái, việc đổi tên như thế bao hàm một ý nghĩa quan trọng và là một cách minh chứng: người đổi tên là người có uy quyền, và người được đổi tên sẽ được trao cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Ở đây, Chúa Giêsu đổi tên cho Simon, minh chứng uy quyền của Chúa, và Ngài sẽ trao cho ông một sứ mệnh mới, một nhiệm vụ đặc biệt. Simon được đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, tức là ông sẽ làm nền móng của Giáo Hội, ông sẽ là người lãnh đạo tối cao của Giáo Hội sau này.

Như vậy, Gioan Tẩy Giả biết Chúa Giêsu, nên ông đã giới thiệu cho các môn đệ và hai môn đệ đã tin theo Chúa. Liền sau đó, Anrê đã giới thiệu cho em mình, và Phêrô cũng tin theo Chúa. Rồi cả ba môn đệ cũng như tất cả các môn đệ khác đã biết Chúa, sống với Chúa và vâng lệnh truyền của Chúa đi giới thiệu Chúa cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp nơi rao giảng cho mọi người”. Các ông đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này.

Đối với chúng ta hôm nay, một khi đã chịu phép rửa tội và gia nhập vào Giáo Hội, chúng ta đều có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho anh em. Chúng ta có thực hiện không và thực hiện như thế nào? Mục đích của giới thiệu là để biết nhau, muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người đó, tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít, nếu không biết rõ về người nào thì có thể giới thiệu sai về người ấy, chẳng ai muốn người khác giới thiệu sai về mình, giới thiệu sai là xúc phạm đến người đó và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa chúng ta phải biết Chúa. Chúng ta có biết Chúa không?

Có lẽ nhiều người tín hữu có mặc cảm vì thấy mình non yếu về đức tin, về giáo lý, về Kinh Thánh, hình như chúng ta chỉ đủ đức tin để giữ đạo cho mình mà không truyền thụ được cho ai, vì vốn liếng kiến thức về giáo lý, về Kinh Thánh quá ít. Chúng ta thử nhìn lại bản thân mình mà coi: hồi nhỏ, chúng ta học giáo lý chỉ là những câu hỏi thưa, học thuộc để được xưng tội rước lễ lần đầu, Thêm sức hoặc lãnh bí tích hôn phối, từ đó trở đi, không còn ai lo phải học, phải thi giáo lý nữa. Nhiều người cũng chỉ bằng lòng với vốn liếng giáo lý đó, chứ không còn học hỏi hay đào sâu thêm chi nữa, cũng chẳng ai bắt buộc chúng ta học nữa, trong khi đó ở những bộ môn khác luôn luôn được học hỏi, được bồi dưỡng thêm.

Nói như vậy không phải để chúng ta bi quan, mặc cảm, nhưng để chúng ta cố gắng thêm, dù chúng ta không biết về Chúa cho đủ, nhưng Chúa cũng sai chúng ta đi giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta, đó chính là một tấm gương trước mặt mọi người và có giá trị hơn nhiều bài giảng, “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo” là thế.

Xin hãy nhớ: không phải ai cũng có thể làm việc lớn, nhưng tất cả mọi người có thể làm được điều thiện, mà điều thiện thì luôn có trong đời thường, và việc thường thì luôn có bên cạnh. Không phải ai cũng là thánh ở đời này, nhưng tất cả đều có thể là một người lành, người tốt, vì thế, với việc thường ngày, dù có nhạt nhẽo, nhàm chán với đắng cay, chúng ta cũng hãy góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Giáo Hội và thế giới, chúng ta hãy cố gắng làm gì cho đời chứ không thu góp những gì của đời cho mình, vì một cuộc đời chỉ biết có mình là cuộc đời đã chết trước khi tắt thở.

[Mục Lục]

Bài 10. Hãy đến mà xem

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Vào khoảng năm 1965 về trước, thời bấy giờ chưa có vô tuyến truyền hình, nên mỗi lần có trận giao đấu bóng đá giữa hai đội mạnh, thính giả toàn quốc chỉ được nghe tường thuật về trận đấu qua làn sóng của đài phát thanh.

Thật khó hình dung nổi diễn tiến trận đấu với những pha đi bóng gay cấn, những cú sút ngoạn mục khi chỉ được nghe bằng tai.

Hiện nay, chuyện theo dõi trận đấu qua đài phát thanh đã thuộc về quá khứ vì ưu thế vượt trội của kỹ thuật truyền hình. Nhờ đủ dạng sóng truyền hình hiện đại bao trùm trái đất, người hâm mộ bóng đá từ phần nửa bên nầy địa cầu có thể chứng kiến, như thể tận mắt, từng chi tiết, từng pha đi bóng của những cầu thủ trong những trận đấu diễn ra ở nửa bên kia trái đất.

Thế là từ khi có truyền hình, không ai mê bóng đá lại theo dõi trận đấu qua đài phát thanh nữa. Từ kỹ thuật truyền thanh chuyển qua truyền hình là cả một bước tiến vượt bậc.

Tiến trình mặc khải cũng trải qua hai chặng đường như thế.

Khởi đầu, Thiên Chúa không trực tiếp tỏ mình cho loài người nhưng chỉ phán dạy qua các ngôn sứ, – như thể qua xướng ngôn viên trên các đài phát thanh – nên chân dung của Thiên Chúa còn rất mờ mịt đối với loài người.

“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1,1a).

Tiến sang giai đoạn hai, Thiên Chúa không còn mặc khải Người bằng lời qua trung gian các ngôn sứ nữa, nhưng đã bày tỏ chính Mình qua Con chí ái là Đức Giêsu Kitô.

“Nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1b)

Thế là từ đây, Lời của Thiên Chúa – tức Ngôi Lời – không còn là tiếng nói từ cõi xa xăm vọng lại, nhưng đã mặc lấy một hình hài, một thân xác để cho mọi người không những được nghe tiếng mà còn có thể nhìn ngắm, đụng chạm, tiếp xúc với Ngôi Lời.

“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1,14)

“Người là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa” (Dt 1,3)

Thế là chương trình mặc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một khúc quanh mới: giai đoạn mặc khải qua hình ảnh, qua chân dung – như kỹ thuật vô tuyến truyền hình hiện nay – đã khai mở. Nhờ đó, nhân loại không những có thể “nghe”, mà còn “thấy tận mắt, được chiêm ngưỡng và được chạm đến Lời” của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. (thư IGa 1,1)

Hãy đến mà xem

Trăm nghe không bằng một thấy. Nghe tường thuật về một trận bóng sao bằng tận mắt xem trận đó, ít nữa qua chiếc TV.

Chính vì thế nên khi Anrê và một môn đệ khác của Gioan Tẩy Giả được giới thiệu cho biết Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, hai ông liền tìm gặp Chúa Giêsu để tìm hiểu Người.

Chúa Giêsu quay lại hỏi: “Các anh tìm ai?”. Họ thưa Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến mà xem”.

Hai anh em nầy đến với Chúa Giêsu, ở lại với Người, rồi mới sống gắn bó và trở thành môn đệ của Người.

Chúa Giêsu mời gọi “hãy đến mà xem”, nhưng chúng ta có thể nhìn xem Chúa ở đâu?

Trước hết là trong Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô dạy: “Không biết kinh thánh là không biết Chúa Giêsu”. Từng trang, từng dòng trong kinh thánh đều hoạ lại chân dung Chúa Giêsu và âm vang lên sứ điệp của Người. Biết bao nhiêu người nhờ thường xuyên nhìn ngắm cuộc đời và lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu trong Tân Ước, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đã được diễm phúc cảm nghiệm được Chúa là Đấng tuyệt vời khôn tả.

Dostoievski, đại văn hào trứ danh người Nga ở thế kỷ 19, cũng là ngôi sao sáng trong trong làng văn học thế giới, từng viết nhiều tác phẩm đồ sộ có giá trị vượt thời gian và không gian, thường chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin Mừng nên mới cảm nhận được nét đẹp cao quý tuyệt vời của Chúa Giêsu và đã tuyên xưng Người qua bức thư gửi cho bà Von Vizine. Bức thư nầy thường được gọi là kinh tin kính của Dostoievski: “Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, nếu ai chứng minh với tôi rằng Đức Giêsu ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý”.

Ước gì chúng ta thường xuyên “đến mà xem” Chúa Giêsu trong kinh thánh, “ở lại với Người” nơi bí tích thánh thể, để rồi say mê Người như Dostoievski và trở thành môn đệ Người như Anrê và người bạn của ông.

[Mục Lục]

Bài 11. “Hãy quên đi cái tôi…”

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một bài hát sinh hoạt quen thuộc vẫn mời gọi chúng ta: “Hãy quên đi cái tôi để mang Chúa đi vào đời”. Xem ra để mang Chúa vào đời phải quên đi cái tôi của riêng mình để sống cho Thiên Chúa. Xem ra để mang Chúa vào đời phải từ bỏ tham vọng của cái tôi ích kỷ để Chúa được lớn lên trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Vì ở đời ai cũng thích danh vọng. Ai cũng mong cho mình được nổi tiếng, được trở thành ân nhân của xã hội. Xem ra từ thích danh vọng đến hám danh hám lợi thật gần, gần đến nỗi nhiều người đã trơ trẽn nhận phần vinh quang về mình, cho dù vinh quang đó không do công của mình.

Ngày nay ai cũng sợ bệnh thành tích. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến ham danh hão huyền. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến biết bao tiêu cực bởi sự gian dối, lường gạt. Những con người ham danh thường là sống giả dối, thiếu chân thật. Những con người ham danh thường tìm vinh quang về mình. Thích được tán thưởng. Thích được biết ơn. Nhưng đôi khi họ chỉ là một loại Lý Thông cướp công Thạch Sanh như trong truyện dân gian Việt Nam.

Có một nhà truyền giáo tâm sự rằng: ngài đã từng truyền giáo tại Đông Timor. Đó là một đất nước nghèo nàn và lạc hậu. Người dân còn thiếu rất nhiều phương tiện tối thiểu của cuộc sống. Ngài đã vận động rất nhiều các cá nhân và tổ chức từ thiện ở mọi nơi để giúp đỡ cho người dân Đông Timor. Nhiều nơi hưởng ứng và nhờ đó ngài đã có rất nhiều tặng phẩm để tặng cho người nghèo. Tự nhiên ngài được người dân kính nể, yêu mến và biết ơn. Thế nhưng, ngài lại mắc cở khi được người đời ca tụng. Vì ngài biết rất rõ, ngài chỉ là kẻ phân phát, là trung gian chứ không phải là chủ nhân. Ngài chẳng có chỉ ngoài đôi tay để đón nhận và trao ban. Ngài không có quyền nhận cái không phải của mình. Vì tiền bạc, của cải là của những nhà hảo tâm trao cho ngài để ngài trao đến cho anh em nghèo khó. Từ đó, ngài đã rút ra kinh nghiệm rằng: cái khó của người làm công tác từ thiện là làm sao đửng nhận mình là người ban phát, đừng tưởng rằng những tặng phẩm đó là của mình cho người nghèo. Hãy khiêm tốn đừng nhận phần đó về mình là những lời khen, những lới tán dương… Hãy biết cho đi cả danh dự của mình, vinh quang của mình. Hãy tự biết mình chỉ là tôi tớ hèn mọn được Chúa sử dụng mang lại niềm vui cho những anh em nghèo khó.

Đó cũng là cung cách của thánh Gioan Baotixita. Ngài luôn sống khiêm tốn trước mặt mọi người. Ngài đã từng không dám nhận phần vinh dự về mình, khi ngài nói: “Có Đấng đến sau tôi. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”. Ngài đã từng mong ước cho đời sống chứng nhân của ngài luôn “nhỏ bé để Chúa được lớn lên”. Ngài chỉ muốn những việc ngài làm sẽ dẫn người khác đến với Chúa. Ngài muốn dùng cuộc đời chứng nhân của mình để tôn vinh Thiên Chúa.

Hôm nay, ngài cũng sẵn sàng để các môn đệ của mình đến với Chúa. Ngài không dám giữ các môn đệ cho riêng mình. Ngài đã giới thiệu cho các môn đệ về danh tính của Đấng Messia. Đây mới chính là Chiên Thiên Chúa. Đây mới xứng đáng là Thầy mà các ngươi cần đi theo. Ngài sẵn lòng để các môn đệ ra đi. Ngài biết phận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Tinh nhân trần.

Ước gì ở đời có nhiều tâm hồn quảng đại sẵn lòng dấn thân làm chứng cho tin mừng của Chúa nhưng vẫn luôn khiêm tốn và ẩn mình đi. Dấn thân một cách vô vị lợi. Dấn thân một cách quên mình. Dấn thân để tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh mình. Dấn thân để làm vinh quang Thiên Chúa, chứ không nhằm rạng danh mình. Dấn thân để mang anh em đến với Chúa, để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải đến với mình để tâng bốc tán dương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có lòng quảng đại để cho đi cái riêng của mình để làm giầu có cho Thiên Chúa, như Gioan đã cho các môn đệ đến với Thầy Giêsu, như Anre đã mang em mình là Simon đến với Chúa. Ước gì chúng ta luôn nhỏ bé, khiêm tốn, đừng đề cao mình quá đáng, đừng tìm cách tán dương mình mù quáng. Hãy để những công việc mình làm cho danh Chúa được cả sáng.

Lạy Chúa, ở đời ai cũng thích được tán dương, được khen thưởng, được đề cao giữa mọi người. Người đời thường đua nhau danh vọng. Chính vì vậy mà cuộc đời không thiếu những thị phi, những bất công… Xin cho chúng con luôn khiêm tốn, bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 12. Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay

  1. Nguyễn Quốc Tuấn

Cuộc sống hôm nay đang đặt ra cho người Kitô hữu rất nhiều chọn lựa: chọn lựa giữa niềm tin vĩnh cửu với sự hấp dẫn kỳ thú của những thành tựu vĩ đại do nền khoa học kỹ thuật tiên tiến mang lại, giữa hành vi buông thả, tự do quá trớn với thái độ đúng mực theo nền tảng luân lý truyền thống, nhất là sự cân nhắc chọn lựa giữa các “thần tượng” trần thế với lời mời gọi lý tưởng đến từ thập giá Đức Kitô… Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta bắt gặp được câu trả lời thỏa đáng cho những chọn lựa ấy. Tin mừng Ga 1, 35 – 42 đã gợi lên cho chúng ta kinh nghiệm đáp trả đích thực của người môn đệ Chúa trước lời mời gọi của Đức Kitô.

1/ Tiếng gọi từ thập giá

Gioan Tiền hô đã không giới thiệu Đức Giêsu “với hai người trong nhóm môn đệ” như là vị vua hùng dũng sẽ đem vinh quang cho toàn cõi Israel ở phương diện trần thế, nhưng “là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36b). Khi nghe biết tước hiệu của Đấng đang “đi ngang qua” là “Chiên Thiên Chúa”, chắc hẳn hai môn đệ của Gioan (Anrê và một môn đệ khác) không khỏi sững sờ và kinh ngạc về vai trò và vị thế của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Lời giới thiệu của Gioan mở ra bước ngoặt trọng đại có liên quan đến sứ vụ của các ông và toàn nhân loại. Cũng chính trong thời điểm ấy, hai môn đệ của Gioan đã lắng nghe “tiếng gọi từ phía bên trong”, nhắc bảo các ông hãy bước theo Đấng cứu độ đích thật, là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1, 33b). Nghiệm thấu điều này, hai môn đệ “liền đi theo Đức Giêsu” với tất cả niềm tín thác và hy vọng về giá máu cứu độ của “Chiên Thiên Chúa”. Hành trình sứ vụ trước mắt các ông là chặng đường đau khổ để minh chứng cho sự chọn lựa đúng đắn của mình vào thập giá Đức Kitô. Với tất cả tình yêu tận hiến, hai môn đệ của Gioan đã trở thành những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.

Tiếng gọi từ thập giá vẫn vang vọng trong tâm thức của người Kitô hữu hôm nay và với hết thảy những ai đang hướng chiều về Đấng là “Chiên Thiên Chúa” đang “đi ngang qua” đời họ với bao nỗi niềm buồn vui, khổ đau, hạnh phúc… Có khi, dường như ta đã tỏ ra e sợ trước những khổ đau đến từ thập giá. Có lúc, người mang danh kitô hữu lại nhát đảm, thậm chí khước từ, chạy xa khỏi mối dây thông hiệp với cuộc khổ nạn, phục sinh của “Chiên Thiên Chúa” trước những đắng cay, nghiệt ngã của cuộc lữ lành đức tin. Giữa bộn bề, ngổn ngang của bao định hướng, lựa chọn và những áp lực, cám dỗ của lối sống hình thức, tiếng gọi từ thập giá nhiều khi bị chìm lắng và có nguy cơ tan biến trong tâm khảm chúng ta…Hệ quả là, ta phải đứng giữa trăm chiều do dự, lần mò giữa mục tiêu tối hậu với những phương tiện tạm thời, làm cản lối về vinh quang đích thực chỉ có thể tìm thấy nơi thập giá Đức Kitô.

Thái độ đáp trả của hai môn đệ mời gọi ta hãy dứt khoát, can đảm bước ra khỏi lối mờ tối của những lựa chọn và hướng thắng về phía thập giá, ở đó, “Chiên Thiên Chúa” là mẫu hình lý tưởng nhất cho đời ta. Vì chỉ nơi “Chiên Thiên Chúa”, ta mới được biến đổi trong tiến trình hoán cải nội tâm thực sự, nhờ hiệu quả “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận từ ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).

2/ Sống với Đức Kitô

Bước theo Đức Kitô, cũng có nghĩa là chúng ta biết đáp trả cách nhiệt thành và kiên trung trước tiếng gọi từ thập giá. Như hai môn đệ của Gioan, sau khi đã nghe Gioan giới thiệu Đấng “là Chiên Thiên Chúa”, hai ông đã không hề do dự nhưng đã hoàn toàn dứt bỏ lối cũ và nhất mực bước đi theo Người, để sống với Người. Câu hỏi của các ông, “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38b), hàm ẩn niềm khát khao kiếm tìm tận căn thân thế và hành động yêu thương của “Chiên Thiên Chúa” khi Người cứu độ nhân loại. Được tình yêu cứu độ thúc bách, các ông đã “đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người” (Ga 1, 39b). Để từ đây, “hai người trong nhóm môn đệ” của Gioan có thể thông dự vào đời sống thần nhiệm sâu xa và sung mãn của Đức Kitô, nhờ lòng tin và tình yêu tận hiến cho vinh quang thập giá.

Đời sống của người kitô hữu là một tiến trình bền bỉ, liên tục kết hiệp mật thiết và sinh động với sự sống của Đức Kitô. Dấu chứng cho sự kết hiệp này được biểu tỏ qua thái độ hy sinh trao hiến của chúng ta như hệ quả do bởi giá máu cứu chuộc của Con Chiên Thiên Chúa. Dù phải đối diện với những chọn lựa đầy khó khăn, người tông đồ của Đức Kitô hôm nay cũng được mời gọi đáp trả tiếng Chúa qua hành động kiếm tìm và “ở lại” trong tình yêu của Người.

Sống với Đức Kitô là cảm thông, sớt chia và làm triển nở tình yêu cứu độ của Người. Hôm nay, ta không thể “đến xem chỗ Người ở” cách thể lý, nhưng mỗi người chúng ta là thành viên chính thức, được hạnh phúc thông dự vào “Ngôi Nhà” Giáo hội do Đức Kitô thiết lập nên, là chính Nhiệm Thể của Người. Do đó, khi ta chu toàn sứ vụ của một chi thể ngay giữa lòng Giáo hội thì ta cũng đồng thời được kết hiệp với sự sống trọn hảo của Đức Kitô.

Sống với Đức Kitô, là tháp hiệp vào trong từng hơi thở, trong ánh mắt yêu thương, trong mỗi cử chỉ, hành vi trao hiến của Người. Tình yêu của Đấng “là Chiên Thiên Chúa” sẽ hiển trị khi ta biết mở rộng cõi lòng để đón nhận và đỡ nâng biết bao phận người đang bị vùi dập giữa những khổ đau của kiếp nhân sinh. Như Đức Kitô, ta hãy dõi ánh mắt yêu thương về phía hận thù và hãy nói lời thứ tha được khởi phát từ con tim dạt dào Đức ái trong ta. Như Đức Kitô, ta hãy cúi xuống và vực dậy nhân loại hôm nay đang cố rời xa những chuẩn mực nền tảng của Tin Mừng.

Ta hãy “ở lại” với Đức Kitô trong nhiệm tích Thánh Thể, để được thông truyền sự sống và tình yêu tuyệt hảo, nhờ đó, ta có được sức mạnh thần linh để sống chứng nhân cho Người trong cuộc sống hôm nay.

3/ Chứng nhân cho Đức Kitô

Theo lời mời gọi của Đức Giêsu, Anrê và người môn đệ ẩn danh không chỉ “đến xem” và “ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1, 39b), nhưng các ông đã báo tin vui cho Si-mon và những người khác: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga 1, 41b). Như vậy, được sống với Đức Giêsu dù chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi của buổi đầu gặp gỡ, các môn đệ đầu tiên đã thấu cảm gương mặt đích thực của “Chiên Thiên Chúa” như lời giới thiệu của Gioan. Các ngài đã được biến đổi thành những tông đồ thực thụ nhờ được “ở lại” trong tình yêu của Đức Kitô. Tình yêu ấy thúc bách các ngài tiến xa hơn trên hành trình sứ vụ giới thiệu “Chiên Thiên Chúa” cho muôn người, dẫu phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.

Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân trung thành của Người trước một nhân loại đang tỏ ra lãnh đạm với chân lý và mục tiêu tối hậu. Trong bối cảnh ấy, tiếng gọi từ thập giá vẫn không ngừng âm vọng trong cõi sâu thẳm của con người, kêu mời sự dấn thân quả cảm của những tâm hồn thiện chí cho sự sống và tình yêu của Đức Kitô được trở nên dũng khí linh nhiệm nhằm cảm hóa và biến đổi thế giới này.

Các môn đệ đầu tiên chỉ có thể giới thiệu Đức Kitô cho những người khác sau khi các ông đã “đi theo”, đã “đến xem” và “ở lại” với Người. Chúng ta chỉ có thể trở nên chứng nhân mạnh bạo, can trường của Đức Kitô khi ta đã sống kinh nghiệm thông dự vào tình yêu thập giá cách trọn hảo.

[Mục Lục]

Bài 13. Đến và ở lại

Anmai

Thử hỏi ai trong chúng ta là người không biết yêu? Và khi yêu nhau, tâm trạng của tình yêu nó làm sao đó và chẳng ai có thể diễn tả được. Chỉ có những tâm hồn đang yêu mới diễn tả và mới hiểu được tình yêu là gì.

Đơn giản, đứa trẻ, nhìn vào đứa trẻ chúng ta sẽ thấy lộ ra tình yêu của chúng với cha mẹ chúng là như thế nào. Chúng hình như không muốn xa lìa cha mẹ chúng chút nào cả. Bằng chứng tôi thấy rõ nhất là ở gia đình, có hai đứa cháu trai năm nay đứa học lớp 10, đứa học lớp 5. Hai đứa cháu này không bao giờ chịu rời xa cha mẹ chúng cả. Dù nghe người khác bảo là dẫn đi Siêu Thị hay đi mua đồ chơi, mua thức ăn cho chúng là những điều chúng thích nhưng chẳng bao giờ dụ chúng được. Có lẽ một phần do bản tính nhưng căn cốt đó là vì yêu cha yêu mẹ chúng, chúng sợ xa cha xa mẹ nên chẳng chịu rời xa cha mẹ. Yêu là như vậy đó.

Hay là như chúng ta, hơn một lần chúng ta tiễn biệt người thân chúng ta như ông, như bà, như cha, như mẹ. Ít nhiều gì đó, chúng ta cảm thấy cái giây phút hạ huyệt, cái giây phút đưa vào lò thiêu nó đau đớn đến mức nào. Có những người khóc ngất, có những người xỉu vì xa cha, xa mẹ, xa ông, xa bà của mình. Tại sao khóc? Chẳng cần suy nghĩ, ta có thể trả lời ngay là vì yêu. Yêu nên sợ xa, sợ mất người mà mình yêu.

Nhìn vào tình yêu đôi lứa chúng ta sẽ thấy rõ nét nhất về sự xa cách này. Khi vì hoàn cảnh chưa đến được với nhau, chưa được ở gần nhau thì cái lòng nó nao nao làm sao đó. Hình như lúc nào anh chị cũng muốn được ở gần nhau, được ở bên nhau hết. Có những lúc đi xa thì chỉ tổ làm giàu cho các mạng di động thôi vì lúc nào cũng liên lạc cả. Không được ở gần nhau vì hoàn cảnh nào đó thì cũng mong được nghe tiếng của nhau. Vì sao vậy? Vô duyên quá chăng? Không! Đó là vì yêu, yêu nên người ta mới mong mỏi được ở gần nhau, ở bên nhau.

Tất cả những hình ảnh đơn sơ ấy biểu lộ tình yêu giữa con cái với ông bà cha mẹ, giữa hai người yêu nhau. Phải nhìn nhận thẳng với nhau rằng, trước khi yêu ta tin cái người ta yêu. Thử hỏi đứa trẻ xem, nó tin ai nhất? Chắc chắn nó tin cha mẹ nó nhất trên đời nên nó mới yêu. Thử hỏi không tin xem nó có dám yêu chăng?

Hai anh chị cũng thế! Dù không nói ra, dù không cân – đo – đong – đếm được nhưng hình như tự hai người nó phát ra cái tín hiệu rất là lạ đó là tin nhau. Tin nhau rồi họ mới tìm đến nhau và mới yêu. Thật sự mà nói, chẳng ai dám đi yêu cái người mà mình không tin cả. Từ tin bắt đầu đến yêu. Yêu nhau nên muốn ở lại bên nhau là chuyện bình thường thôi. Nếu yêu mà không tin nhau đó là tình yêu bất thường, tình yêu dị dạng và tình yêu móp méo.

Hình ảnh tin, yêu và ở lại bên nhau được Thánh Gioan nói cho chúng ta qua trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Gioan thuật lại rằng có hai môn đệ đang đứng với ông, thấy Đức Giêsu đi ngang và Gioan giới thiệu ngay: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Sau khi nghe giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, lập tức hai môn đệ đi ngay. Tại sao đi ngay? Vì lẽ là môn đệ Gioan, tin Gioan nên mới đến với Chúa Giêsu và ở lại với Chúa Giêsu. Không đơn giản như Thánh Gioan thuật lại, muốn đến và ở lại như vậy chắc có lẽ phải qua một thời gian, một giai đoạn tìm hiểu và rồi tin và rồi yêu như những người trẻ đến với nhau vậy. Và muốn có được kết qủa như ngày hôm nay của hai môn đệ ông Gioan là do hai môn đệ ấy đã lắng nghe ông Gioan nói về Chúa Giêsu trong thời gian hai ông ở với Gioan. Phải lắng nghe hai ông ấy mới biết Chúa Giêsu là ai để rồi mới ngong ngóng tìm Chúa và hôm nay mới gặp được Chúa và theo Chúa, ở với Chúa.

Muốn biết về ai, muốn tin vào ai và muốn yêu người ấy thì chuyện quan trọng nhất đó là lắng nghe. Khi ta không lắng nghe nói về người đó, nói với người đó thì làm sao ta biết, ta tin và ta yêu được.

Hình ảnh về sự lắng nghe, về tin, về yêu ấy được Samuael thuật lại trong trang sách của ông mà chúng ta cũng vừa được nghe.

Trong cơn ngủ đấy nhưng Samuel được nghe tiếng gọi, ông giật mình đến hỏi thầy của mình. Cả đến 3 lần, 3 lần ấy ông Êli đều xác nhận không phải là ông gọi nhưng chính Thiên Chúa gọi Samuel. Và Samuel lại tiếp tục trong cơn ngủ của mình. Thiên Chúa lại đến với Samuel và thực thi theo lời thầy mình dạy, Samuel đã thân thưa với Chúa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe”. Sau khi thân thưa, thỏ thẻ với Chúa về tâm tình, về thái độ của mình thì ơn của Thiên Chúa đến với ông như chúng ta nghe: “Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. (1 Sm 3, 19)

Thật sự là thế, Samuel lớn lên trong ơn nghĩa của Chúa nhờ thái độ, nhờ tâm tình lắng nghe Chúa và rồi Chúa ở với ông. Chúa ở với ông đồng nghĩa là ông ở trong Chúa.

Chúng ta, nhìn lại mình, chúng ta thấy buồn cười lắm! Chúng ta được nghe các thánh, các tông đồ và nhiều người nói về Chúa cho chúng ta nhưng tâm hồn của chúng ta nó cứ trơ trơ ra làm sao đó. Không chỉ các thánh, các tông đồ nhưng ngay bản thân chúng ta thôi, Thiên Chúa đã nhiều lần trực tiếp bằng những biến cố này biến cố khác trong cuộc đời Chúa nói với chúng ta đấy nhưng chuyện quan trọng là chúng ta có đủ kiên nhẫn, có đủ lắng đọng để nghe không?

Tạ ơn Chúa vì ngày nay xã hội phát triển, thậm chí phát triển quá mức tưởng tượng. Tất cả những gì xã hội mang đến cho con người là con dao 2 lưỡi. Nó phục vụ rất tốt cho cuộc sống của con người nhưng ngược lại nó cũng làm cho con người ra hư hỏng. Nếu biết dùng thì con người sẽ dùng những vật chất, những phát triển văn minh sẽ phục vụ con người nhưng không khéo nó sẽ làm hỏng con người. Nếu không cẩn thận, nếu không có chiều sâu tâm linh đậm đặc đủ con người sẽ mãi chạy theo những đam mê, những cám dỗ của vật chất, của xác thịt, của danh vọng.

Những thú vui của danh vọng, địa vị, vật chất ấy đôi khi đã làm cho con người đánh mất cảm thức về Chúa, không còn thấy Chúa có chỗ đứng trong cuộc đời của mình nữa. Sự thật thật bi đát, sự thật thật đau lòng đó là dù cho giàu có, danh vọng, hưởng thụ đến mức nào đi chăng nữa nhưng không có Chúa cuộc đời nó cứ rỗng rỗng tuếch tuếch làm sao đó.

Chúng ta vẫn bị giằng co giữa những cái mong manh của cuộc đời và Chúa nên rồi chúng ta cứ quay quắt trong những cái mong manh ấy. Vì sao chúng ta bị quay quắt? Vì lẽ chúng ta đã lìa xa Chúa, chúng ta đã không tìm Chúa, không đến, không lắng nghe lời Chúa như hai môn đệ của ông Gioan và Samuel.

Vâng! Tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ mất hết, còn lại duy chỉ mình Chúa thôi. Xin Chúa cho chúng ta ghi nhớ rằng chỉ mình Chúa là đủ cho cuộc đời chúng ta để rồi dù cuộc đời này có bao nhiêu ồn ào, bao nhiêu náo động chúng ta luôn lắng đọng tâm hồn để chúng ta đến bên Chúa, để ở lại với Chúa và để nghe lời Chúa. Khi Lời Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an thật sự trong cuộc đời.

[Mục Lục]

Bài 14. Ơn gọi

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người; tuy nhiên nếu ai không đáp trả tiếng gọi của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương và tiếp tục mời gọi họ theo chương trình yêu thương của Ngài. Thiên Chúa luôn mong muốn và mời gọi mỗi người sống hạnh phúc, không chỉ ở đời sau nhưng ngay đời hiện tại này nữa.

1/ Chúa gọi Samuel

Samuel là người con được sinh ra sau khi bà Anna, một phụ nữ hiếm muộn, cầu khẩn Đức Chúa. Người mẹ đã cầu xin Thiên Chúa ban cho mình người con, bà cầu nguyện khẩn thiết đến độ thầy tư tế Hêli tưởng bà say rượu nói nhảm. Sau khi nghe bà trình bày, thầy Hêli chúc lành cho bà, và sau đó bà sinh hạ Samuel. Bà mẹ này đã dâng người con quý cho Thiên Chúa, để Samuel được phục vụ trong nhà Thiên Chúa. Bà Anna nhận ra rằng, tuy Samuel là con bà, nhưng Samuel cũng là người thuộc về Thiên Chúa, là người của Thiên Chúa. Người hiếm muộn dễ nhận ra con cái là quà tặng của Thiên Chúa; họ thường trân trọng và quý món quà Thiên Chúa ban này cách đặc biệt.

Thiên Chúa gọi Samuel. Đầu tiên Samuel cũng tưởng đó chỉ là lời gọi của người phàm. Samuel chỉ nhận ra Chúa gọi mình khi thầy Eli dạy cho cậu biết. Phải chăng tiếng Chúa và tiếng con người cũng có những nét giống nhau, và chỉ con người thân quen với Thiên Chúa hay có kinh nghiệm với Thiên Chúa mới dễ dàng nhận ra? Con người là thể xác và tinh thần, nên để nghe được tiếng Chúa, con người cần nhận ra điều gì đó và xác tín rằng điều này đến từ Thiên Chúa. Thánh Yuse qua giấc mộng, nhận ra đó là tiếng Chúa. Giấc mộng, có thể là trung gian Thiên Chúa dùng để tỏ lộ Ý của Ngài cho con người. Đức Maria được thiên thần truyền tin. Có thể thiên thần lấy hình một người hiện ra cho Đức Maria và nói với Mẹ, nhưng cũng có thể Mẹ Maria nhận ra Ý Thiên Chúa qua những ý tưởng hiện ra trong đầu Mẹ.

Thiên Chúa có chương trình cho Samuel. Ngài có chương trình cho Yuse và Maria. Thiên Chúa có chương trình cho Phaolô (1Cor.1, 1). Thiên Chúa cũng có chương trình cho mỗi người chúng ta, vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta như yêu chính Đức Yêsu (Ga.17, 23. 20; 15, 9.13). Thiên Chúa muốn chúng ta thuộc về Thiên Chúa, và sống hạnh phúc nhờ và trong Đức Yêsu Kitô (Eph.1, 3tt).

2/ Thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô

Con người là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa, đến độ Thiên Chúa đã ban chính Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con Ngài thì được cứu (Ga.3, 16). Không phải những ai tin vào Con Ngài thì mới được cứu, nhưng những ai tin vào Con Ngài thì qua việc tin vào Con Ngài họ nhận ra sự thật về Thiên Chúa và về chính con người, và qua đó họ được giải phóng (Ga.8, 32) và được cứu.

Cả thân xác con người cũng là quý giá đối với Thiên Chúa. Thân xác của Đức Yêsu đã phục sinh, và cũng vậy thân xác của mỗi người chúng ta. Một số người tưởng rằng chết là hết, hoặc thân xác bị tiêu hủy sẽ vĩnh viễn không còn gì nữa; nhưng dựa vào biến cố Đức Yêsu phục sinh từ cõi chết, và theo sự hiểu biết của thánh Phaolô (1Cor.15), thân xác chúng ta sẽ phục sinh cho dù hiện tại chúng ta thấy thân xác của con người bị tiêu hủy với thời gian. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Mỗi Kitô-hữu không chỉ phải sống sao cho tâm hồn được tinh tuyền để xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, nhưng Kitô-hữu còn phải sống sao để thân xác cũng là thánh và thuộc về Thiên Chúa nữa. Với Kitô-hữu, không chỉ linh hồn là quý nhưng cả thân xác nữa.

3/ Ơn gọi

Cuối tuần thứ hai trong cuộc Linh Thao, thánh Ynhã Loyola đề nghị người làm Linh Thao chọn lựa bậc sống. Với thánh Ynhã, chọn lựa bậc sống gia đình hay “dâng hiến” không phải là mình thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó, nhưng là nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống bậc sống nào thì mình sẽ “chọn” bậc sống đó.

Xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Nên nếu Thiên Chúa muốn ta sống ở bậc sống nào, thì bậc sống đó (dù gia đình hay dâng hiến) sẽ giúp ta triển nở và hạnh phúc nhất. Như vậy, để nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống ở bậc sống nào, hãy xem bậc sống nào làm mình triển nở và hạnh phúc thật. Đời sống gia đình không kém giá trị hơn đời sống dâng hiến. Đời sống nào giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, thì đó là bậc sống Thiên Chúa muốn tôi sống, và đó là bậc sống tốt nhất đối với tôi. Nếu Chúa muốn tôi sống đời gia đình, thì bậc sống gia đình là tốt nhất đối với tôi; nếu Chúa muốn tôi sống đời “dâng hiến,” thì đời sống dâng hiến là đời sống tốt nhất đối với tôi, vì nơi bậc sống này tôi được triển nở và hạnh phúc, và như vậy Thiên Chúa được tôn vinh nơi tôi.

Các tông đồ và thánh Phaolô, một khi biết Đức Yêsu, đã dâng hiến cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Các tu sĩ trong dòng lịch sử, đã hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và con người. Những người có gia đình muốn phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt, chẳng hạn nơi trách vụ phó tế vĩnh viễn, cần có sự đồng ý của người phối ngẫu, vì các vị này phải có trách nhiệm đầu tiên với gia đình, nên để có thời gian và sức lực phục vụ tha nhân, cần sự đồng ý của người phối ngẫu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1/ Xin bạn cho biết những nét đẹp của đời sống gia đình.

2/ Xin bạn liệt kê những nét đẹp của đời sống dâng hiến (đời sống tu trì).

3/ Theo ý riêng của bạn, đời sống nào giúp bạn triển nở và hạnh phúc hơn?

[Mục Lục]

Bài 15. Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế

Radio Veritas Asia

Nhìn nhận khả năng của người khác đó là một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: “Mỗi người có một ông quan trong bụng”. Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại, ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.

Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian của người Việt Nam: “Coi trời bằng vung” hay “coi trời bằng ngọn rau má” là thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài khiếu hơn thua.

Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy, ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: “Gioan đang đứng và nói chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông”, chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.

Và tâm trạng chung khi một người có nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Đấng ông loan báo, Đấng cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Đấng Cứu Thế.

Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.

Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Đấng Messia thì ông giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô” và rồi ông đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.

Mỗi người trong chúng ta khi biết được Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Đức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng, phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã thúc nhắc chúng ta: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.

Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món quà của đức “Mến Chúa và Yêu Người”.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.

[Mục Lục]

Bài 16. Đáp lời Chúa gọi

Lm. Đam Trần Đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Ga 1,35-42)

Thánh Gioan kể lại một cách hết sức thích thú câu chuyện Chúa Giêsu gọi hai môn đệ đầu tiên. Thích thú thật, vì đó là câu chuyện cho phép chúng ta tha hồ dùng trí tưởng tượng mà hình dung ra bất cứ điều gì chúng ta thấy thích hợp với tâm tình cầu nguyện của chúng ta. Vậy trước hết chúng ta cứ để phần tưởng tượng lại mà tâm sự với Chúa, còn bây giờ chúng ta xem câu chuyện xảy ra như thế nào.

Chúng ta biết rõ hai người môn đệ này thuộc nhóm môn đệ ông Gioan Tẩy Giả. Với linh đạo “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30), ông Gioan Tẩy Giả thấy không có vấn đề gì khi ông vừa nhận ra Chúa Giêsu “đi ngang qua” liền nói cho các môn đệ biết đấy chính là “Chiên Thiên Chúa”. Lời ông Gioan giới thiệu giản dị, nhưng chứa đựng cả một bí mật cao cả, đã khiến cho hai trong số các môn đệ ông quyết định “đi theo Chúa Giêsu”. Đều là “đi”, nhưng người thì đi ngang qua làm như không để ý gì, kẻ thì đi theo để gặp cho được người mình chưa biết là ai. Bề ngoài xem ra như chuyện tình cờ, nhưng bên trong là động lực mạnh mẽ: Chúa Giêsu cố ý đi ngang qua để lọt vào sự chú ý của những kẻ Chúa muốn gọi, còn hai môn đệ ông Gioan cố ý đi theo Chúa Giêsu là để khám phá một mầu nhiệm.

Điểm thứ hai lôi cuốn chúng ta chú ý, đó là mẩu đối thoại ngắn gọn giữa Chúa Giêsu và hai ông. Những câu hỏi và trả lời giống như giữa những người bàng quan với những lời lẽ rời rạc. Tuy nhiên những lời rời rạc ấy lại hàm ẩn ý nghĩa vô cùng sâu xa. Tìm gì không giống như tìm một vật để đâu đó hoặc đánh mất, nhưng là một hành trình tìm kiếm chân lý, tìm Đấng là Tin Mừng với tất cả những giá trị siêu việt của Thiên Chúa. Ở đâu không có nghĩa là một nơi chốn, vì “chồn có hang, chim có tổ, còn Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Cho nên “ở đâu” có nghĩa là cả một kho tàng tích trữ tất cả những mặc khải Thiên Chúa muốn tỏ ra cho nhân loại. Cuối cùng là lời mời gọi Đến mà xem. Lời mời gọi “Đến mà xem” mở ra một chân trời mới cho hai môn đệ ông Gioan. Phải đến thì mới thấy được, nghĩa là phải thoát ra ngoài cái vỏ con người của mình thì mới thấy được Chúa Giêsu là Đấng nào.

Kết thúc câu chuyện tìm kiếm này, thánh sử ghi lại rõ ràng: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Hai ông đã ở lại với Người ngày hôm ấy. Cả một ngày họ ở lại với Chúa Giêsu và chúng ta không rõ với khoảng thời gian đó họ đã khám phá được những gì. Thánh sử chấm dứt câu chuyện, không quên ghi lại câu chuyện thật ấn tượng ấy đã xảy ra vào khoảng giờ thứ mười, rồi ngài im lặng ở đây, nhường lại để chúng ta tưởng tượng mà lắng nghe hoặc nói với Chúa.

Sống sứ điệp Tin Mừng

Như hai môn đệ ông Gioan Tẩy Giả, chúng ta thực sự đã được Chúa gọi làm môn đệ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Tuy mang danh người môn đệ của Chúa, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thực sự đi theo Chúa, hỏi Chúa rằng “Thầy ở đâu?”, đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người. Tất cả những hành vi trên, người môn đệ đích thực cần phải xét lại mỗi ngày để coi mình còn giữ được căn tính môn đệ hay không.

Thay vì đi theo Chúa, chúng ta đi theo những gì thế gian quyến rũ mời gọi. Thay vì hỏi Chúa “Thầy ở đâu?”, chúng ta đã giả thiết Chúa chỉ ở trong nhà thờ, do đó trong cuộc sống thường ngày, chúng ta không muốn Chúa có mặt để Người khỏi cản trở chúng ta sống theo thế gian. Mỗi tuần một lần, chúng ta quả có đến “xem chỗ Người ở”, nhưng thực ra chúng ta không ở lại với Người, có nghĩa là không sống mối tương quan mật thiết với Người trong cầu nguyện.

Thánh sử Gioan đã kể thêm sau câu chuyện rằng ông Anrê, một trong hai môn đệ ấy, đã về nhà và đem em mình là Simôn Phêrô đến giới thiệu cho Chúa Giêsu. Đây cũng là điều chúng ta phải tự hỏi: Có bao giờ tôi giới thiệu một người nào đó và đem họ đến với Chúa chưa? Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta đấy!

[Mục Lục]

Bài 17. Hành trình ơn gọi

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.

1/ Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.

Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe.

Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng.

Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Đức Giêsu.

2/ Giai đoạn hai: Ta đáp trả.

Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.

3/ Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa.

Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha – Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương.

Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi.

Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.

Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa.

Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.

4/ Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa.

Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.

Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết.

Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội.

Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng.

Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.

Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.

GỢI Ý CHIA SẺ

1/ Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không?

2/ Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa?

3/ Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa?

[Mục Lục]

Bài 18. Lắng nghe tiếng Chúa

Lm. Anphong Trần Đức Phương

Từ Chúa Nhật trước, chúng ta đã bước vào Mùa Quanh Năm với Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật II quanh năm (Chu kỳ năm B). Chủ điểm của Chúa Nhật này là ‘Tiếng Chúa gọi mỗi người chúng ta làm việc tông đồ cho Chúa.’

Bài đọc I (Samuel 3, 3-10; 19) nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm tiên tri cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!” Bài Phúc Âm (Gioan 1, 35-42) nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô theo Chúa. Trong Bài đọc II (Corintô 6,13-15, 17-20), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là những tín hữu của Chúa, là chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa, là đền thờ Chúa Thánh Thần, chúng ta không được sống đời sống vô luân, nhưng phải sống thánh thiện, xứng đáng con cái thật của Chúa.

Qua các thời đại, Thiên Chúa thường gọi một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi 12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi hay không (Matthêu 19,16…), và có cố gắng sống xứng đáng và trung thành với Ơn Gọi của mình hay không.

Thánh Luca (Lc 6,12-16) có kể lại việc Chúa Giêsu đã “ra núi cầu nguyện suốt đêm với Thiên Chúa Cha. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là Tông Đồ.” Điều này cho thấy việc chọn 12 Tông Đồ là việc rất quan trọng. Trong số 12 tông đồ Chúa chọn, đa số làm nghề chài lưới, có người làm nghề thu thuế; lại có Giuđa Itcariot là kẻ phản bội; sau này, Matthia được chọn để thay thế (Cv. 1, 15-26). Chúa cũng chọn Phaolô làm Tông Đồ cho Chúa ngay chính lúc ông này (lúc đó còn tên là Saolô) đang trên đường đi bách hại đạo Thánh Chúa (Cv. 9, 1…)

Trải qua lịch sử của Giáo Hội, Chúa cũng chọn một số người để chuyên làm việc tông đồ cho Chúa qua các địa vị khác nhau: Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ. Mỗi trường hợp đều do sự nhiệm mầu của tình yêu Chúa. Chẳng ai dám tự phụ mình là người xứng đáng. Dù có những Ơn Gọi rất đặc biệt, như trường hợp của Đức Hồng Y Avery Dulles (1918-2008) con của ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, đã gia nhập Đạo Công Giáo lúc 22 tuổi, đã từng là Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ, năm 1946 giải ngũ, vào Dòng Tên, chịu chức Linh mục năm 1956, và dâng hiến cả cuộc đời để nghiên cứu, viết nhiều sách về thần học, trở nên rất nổi danh tại Hoa Kỳ về đời sống thánh thiện và nhiệt thành truyền giáo (giống như Ơn Gọi của Linh mục Bác Sĩ Cổ Tấn Hưng ở Việt Nam); Cha Bao Yuanjin, hiện sống âm thầm truyền giáo ở Trung Quốc; Cha Charles de Foulcauld (1858-1916), lập dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội, và rất nhiều trường hợp khác.

Nhưng không phải chỉ các Giáo sĩ hay Tu sĩ mới được mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa, mà mọi tín hữu đều có ơn gọi riêng của mình để làm tông đồ cho Chúa cách này hay cách khác. Nhìn công việc truyền giáo bao la, Chúa Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…” (Matthêu 9, 37), nhưng trong thực tế, Chúa chỉ chọn có 12 người chính thức làm Tông đồ, sau này thêm ông Phaolô. Vậy, làm sao công việc rao giảng Phúc Âm của Chúa đã có thể lan rộng nhanh chóng suốt cả Đế Quốc Rôma rộng lớn thời đó? Chính là nhờ sự cộng tác quảng đại của các giáo dân thời bấy giờ. Đó là việc Tông Đồ Giáo Dân.

Qua các thời đại cho đến ngày nay, vẫn có những người làm tông đồ giáo dân rất tích cực. Có những vị là những Tông Đồ Giáo Dân rất nổi danh như Antoine Federic Ozanam (Chân Phước) (1813-1835, học giả nổi tiếng của Pháp, lập Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn, chuyên giúp đỡ những người nghèo trên thế giới; Bác sĩ Thomas A. Dooley (Hoa Kỳ, 1927-1961) đã hy sinh cả cuộc đời giúp đồng bào Việt Nam mới di cư từ Miền Bắc vào Miền Nam, và sau đó mở nhà thương giúp bao bệnh nhân tại Lào; Frank Duff (Ái Nhĩ Lan, 1889-1980) lập Hội Đạo Binh Đức Mẹ, chuyên lo công việc thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân, các gia đình đang gặp khó khăn; Chiara Lubich (người Ý, 1920-2008) thành lập hội Focolore để cổ võ tinh thần hòa hợp giữa mọi người thuộc các sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau.

Trong Giáo Hội, luôn có những Hội Đoàn hoạt động tông đồ rất tích cực cho mọi lứa tuổi, như Đạo Binh Đức Mẹ, Liên Minh Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công Giáo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, Cursillo, Opus Dei, Tông Đồ Fatima, Hồn Nhỏ, Hội Bảo Trợ Ơn Gọi v.v… Ngoài ra, còn có các Tu Hội Đời quy tụ chính những giáo dân sống giữa đời, liên kết đặc biệt với nhau để làm việc tông đồ.

Tất cả các Hội Đoàn đều có mục đích giúp thánh hóa bản thân và rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cách này hay cách khác, nơi chính gia đình của mình, nơi sở làm, nhà máy, xưởng thợ, trường học, trong mọi môi trường sống hằng ngày của mỗi người.

Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin Chúa cho mọi người chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ truyền giáo mà chúng ta phải chu toàn; xin cho chúng ta luôn biết ‘lắng nghe tiếng Chúa gọi’, trở nên những tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo bao la trong thế giới chúng ta hiện nay.

[Mục Lục]

Bài 19. Họ đến và ở lại với Người

Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Được công bố trong khung cảnh những ngày bắt đầu chu kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu bật sự bắt đầu một giai đoạn mới với sự xuất hiện của Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên bước theo Người.

Mở đầu bài Tin Mừng, chúng ta gặp một sự xác định thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin Mừng thứ tư: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông” (c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự kiện người Do Thái cử người đến chất vấn ông Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng ta về một tình trạng tĩnh, không tiến triển. Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất cứ một động từ nào diễn tả sự di chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông chưa kết thúc, cho đến khi nào Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của Người. Một khi Đức Giêsu đi ngang qua ông và tiến đi tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì ông sẽ không còn xuất hiện ở chỗ đó nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây giờ, ông vẫn đang đứng đó. Bên cạnh ông là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ đã nghe ông giảng dạy và đã nhận phép rửa của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi “hai môn đệ” mà ghi là “hai người trong nhóm môn đệ”, chứng tỏ đã có cả một nhóm đông người đón nhận lời giảng dạy và phép rửa của ông Gioan. Vậy cùng với ông Gioan, hai người môn đệ này của ông đang đứng đó trong tư thế chờ đợi. Nhưng có một sự khác biệt: ông Gioan đã biết Đấng Mêsia (1,29) còn họ thì chưa.

“Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Ở đây có một chi tiết nhỏ nhưng rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình (1,29), còn hôm nay, vẫn đứng đó, ông lại “thấy Đức Giêsu đi ngang qua”. Quả thật, đúng như lời ông nói: “Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi” (c.15), bây giờ ông đã ở phía sau rồi. Đó là thời khắc của một sự thay đổi quan trọng, thời điểm chấm dứt vai trò của vị tiền hô, vì Đấng ông loan báo đã bắt đầu hoạt động của Người rồi. Vào thời khắc quan trọng đó, ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ông nói cho họ biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho họ thấy một cách cụ thể nội dung mà sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện đang hướng đến.

“Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (c.38). “Đi theo Đức Giêsu” là một thuật ngữ được áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43; 8,12; 10,4; 12,26; 13,36; 21,19). Hai người môn đệ của ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Họ đã lập tức lấy quyết định dứt khoát. Sự dứt khoát và lập tức này cho thấy họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông Gioan đương nhiên không hề phản đối quyết định của hai môn đệ, trái lại, có lẽ ông rất vui mừng trước quyết định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là Chú Rể, như lời ông nói: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,28-30).

Vậy hai môn đệ đi theo Đức Giêsu. Trong im lặng. Tức là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của họ đã được bắt đầu với việc họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu, nhưng chưa đạt đến đích nếu không có sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và hỏi họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng và sự tìm kiếm chân thành và tốt lành của con người. Người hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” (c.38a).Đức Giêsu muốn biết họ tìm cái gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi Người, họ nghĩ Người có thể làm gì cho họ.

Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng một tước hiệu đầy kính trọng, và là cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người có thể ban cho họ những giáo huấn giá trị, rằng Người có thể cho họ biết những điều họ chưa biết. Họ vốn là môn đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của sự trông chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang đến.

Đương thời, mối tương quan tôn sư – môn đệ không chỉ là tương quan giữa người truyền và người nhận kiến thức, mà còn là và chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống của tôn sư làm chuẩn mực cho mình. Chính vì thế, trong ước muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, hai người đồ đệ này muốn biết Người sống ở đâu. Chắc chắn đó phải là một nơi chốn (và tình cảnh cũng như cách thức sống) khác với của ông Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm với lời hỏi “Thầy ở đâu?”, như thế, là một lời thưa với Đức Giêsu về quyết định của họ rời xa vị tôn sư của giai đoạn cũ để đến sống dưới ảnh hưởng của Người. Quyết định này hoàn tất sự đoạn tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông Gioan cử hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi đó cũng có giá trị của một lời xin Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của Người.

“Người bảo họ: “Đến mà xem” (c.39a). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời hỏi của các ông. Người đưa ra một lời mời gọi rằng chính họ hãy đến để trải nghiệm một cách cụ thể và thực tế cuộc sống chung với Người trong tư cách là đồ đệ của Người. Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của họ. Rõ ràng là để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, trước hết, cần phải bước vào trong vùng sự sống của Người, nơi Người đang sống.

“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (c.39b). Họ đã bước vào vùng của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa và sự thật trong đó (1,14). Trải nghiệm trực tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết định cuối cùng là ở lại với Đức Giêsu. Trong Ga, đây là hai môn đệ đầu tiên đến nơi Đức Giêsu sống. Như thế là bắt đầu xuất hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia, cộng đoàn những kẻ sẽ có thể nói: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật ”(c.14). Rõ ràng đây là một thời khắc quan trọng.

“Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Theo cách tính của chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo cách tính của người Do Thái, đó là thời điểm cuối ngày và chuẩn bị bước sang ngày mới, vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm dứt. Ngày mới sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu cũng là lúc đánh dấu sự chấm dứt của dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân cũ đã sắp chấm dứt vai trò của mình, và đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng nhóm của Người.

“Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”(nghĩa là Đấng Kitô)” (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê với Đức Giêsu đã lập tức gây nên nơi ông cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho những người khác biết về Người. Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói “ trước tiên” tức là ông không chỉ giới thiệu với ông Simôn mà thôi, nhưng còn với rất nhiều người khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông Simôn bằng một công thức khá đặc biệt: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)». Chắc chắn ông Simôn là một trong số những người đang tha thiết với niềm mong chờ Đấng Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với Simôn rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan báo cho ông Simôn biết sự chờ đợi đó đã kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện rồi.

Quan niệm về “Đấng Mêsia” của ông Anrê lúc này cần được giải thích trong quy chiếu về hai sự kiện: lời công bố của ông Gioan (“Đây là Chiên Thiên Chúa” ở c.36) và lời giải thích của tác giả Ga (“nghĩa là Đấng Kitô”). Với ẩn dụ Con Chiên, ông Anrê hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Đấng sẽ dùng cái chết của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự chết. Người sẽ khai mở một giao ước mới,thay thế các thiết chế của giao ước cũ đã bị vượt quá. Quan niệm “ Đấng Kitô” quy chiếu về mầu nhiệm Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu (1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong Thần Khí (c.33). Ông Anrê đã được trải nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi Đức Giêsu, và ông loan báo điều đó cho ông Simôn, em trai mình.

Ông Anrê đã nhấn mạnh trải nghiệm quan trọng đó không phải như một trải nghiệm cá nhân đơn độc, mà là trải nghiệm của cộng đoàn các đồ đệ. Ông nói “Chúng tôi đã gặp”. Trải nghiệm về Đấng Mêsia luôn luôn là một trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.

“Rồi ông Anrê dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô)” (c.42). Ông Simôn không có sáng kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông thụ động để cho ông Anrê dẫn đến. Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu nào về lời giới thiệu của ông Anrê. Ông không nói một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.

Đức Giêsu nhìn ông Simôn. Đây chắc chắn không phải là một cái nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông Gioan cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự như vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: “Anh là…”. Vì thế, đó không phải là một cái nhìn tuyển chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận định.

Đức Giêsu xác định ông Simôn là “con ông Gioan”, và tác giả Ga đặt mạo từ trước hạn từ “con”. Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân phụ của ông Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác giả vừa nói rõ Simôn là em trai của Anrê (tức không thể là con trai duy nhất của ông Gioan được). Đàng khác, danh xưng Gioan từ đầu đến đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy Giả (cc.35.40). Vì vậy, nhiều người chấp nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc về phong trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng khác, ông chưa hề được nghe chứng từ của ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề đi theo Đức Giêsu như hai người môn đệ kia.

Rồi Đức Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn sẽ được gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy nhất ghi tên Aram của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa là đá, tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy Lạp. Tác giả Ga không hề nói rằng Đức Giêsu đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga, không bao giờ Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác giả Ga mới gọi ông là Simôn Phêrô trong một số trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68…).

Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn ở đây là một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt. Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay bắt chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi theo Người. Về phần mình, ông Simôn hoàn toàn thụ động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ lời xin làm môn đệ của Đức Giêsu. Rồi sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề giới thiệu Người với bất cứ ai, khác hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu chủ động kêu gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến cuối sách, ở chương 21, sau khi ông Simôn đã ba lần tuyên bố về tình yêu của ông đối với Đức Giêsu, chúng ta mới thấy Đức Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ với ông Philípphê ngay từ giây phút đầu gặp gỡ.

Rất nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta thấy mình được may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta thấy mình giống như ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy… Nhưng chính nhân vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh chẳng có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng đá…

[Mục Lục]

Bài 20. Lắng nghe

Trầm Thiên Thu

William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi”. Thính giác là một trong ngũ quan, nhưng là giác quan quan trọng nhất. Lắng nghe là một nghệ thuật, vì còn phải biết cách nghe.

Có thể nói rằng phải thực sự khiêm nhường mới có thể lắng nghe. Nói là gieo, nghe là gặt. Nghe có lợi hơn nói: Nói ít thì sai ít, nói nhiều thì sai nhiều, không nói thì không sai. Người ta ví von:“Người nói hay không bằng người nghe giỏi”.

Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential có một slogan thật thú vị: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Dĩ nhiên lời đó không thể tuyệt đối vì nặng tính “quảng cáo”, có chút gì đó là “nổ” mà thôi, nhưng qua đó, chúng ta biết được rằng việc “lắng nghe” có tầm quan trọng riêng. Lắng nghe là nghe thấy và chú ý, chứ không nghe cho “có lệ”, nghe vì “không điếc”. Nghe và hiểu có hệ lụy với nhau.

Tuy nhiên, hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” lại có một khoảng cách nhất định, đồng thời còn có những mức độ khác nhau, thậm chí có thể chúng ta vẫn nghe nhưng không hiểu (x. Lc 8:10), và Chúa Giêsu đã phải nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe” [ai có tai nghe thì (hãy) nghe] (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9).

Trình thuật 1 Sm 3:3-10 cho chúng ta biết về câu chuyện “nổi tiếng” về việc “lắng nghe” và “mau mắn đáp lại” của ngôn sứ “nhí” Samuen. Chuyện kể về một đêm nọ, ông Êli đang ngủ, mà mắt ông thì mờ, ông không còn thấy rõ nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuen đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Bất ngờ, Đức Chúa gọi Samuen. Cậu thưa: “Dạ, con đây!”. Rồi chạy lại với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo rằng ông không gọi cậu, cứ về ngủ đi”. Cậu đi ngủ, rồi lại có tiếng gọi lần nữa. Samuen lại dậy ngay và đến với ông Êli, nhưgn ông vẫn bảo là không gọi cậu.

Trẻ người, non dạ, nên Samuen chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Rồi cậu lại nằm ngủ, Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu nên ông bảo Samuen đi ngủ, hễ có ai gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”. Samuen về ngủ, và Đức Chúa lại đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Cậu liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe (1 Sm 3:10).

Đó là câu nói được trích dẫn nhiều mỗi khi nói đến việc thi hành Thánh Ý Chúa. Thi hành mau mắn và vui vẻ chứ không miễn cưỡng như “bị triệt buộc”. Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do hoàn toàn, Ngài không ép buộc ai làm bất cứ điều gì, vì thế Ngài rất đề cao sự tự nguyện, hành động vì yêu mến. Samuen đã lắng nghe, thấu hiểu, và mau mắn làm theo Ý Chúa, thế nên Samuen được Thiên Chúa bảo vệ: “Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Samuen vô cùng diễm phúc!

Diễm phúc không là tình trạng “tự nhiên” mà là động thái “có điều kiện” với lòng tự nguyện: Tổ phụ Ápraham đã “xin vâng” hoàn toàn khi rời quê hương đến Đất Hứa, ông không hề ngần ngại sát tế chính con trai mình, và Đức Maria cũng diễm phúc vì lời “xin vâng” vô điều kiện. Lắng nghe – thấu hiểu – hành động, đó là “chuỗi liên kết” như một tam-giác-đều bất biến vậy, trong đó đã tiềm ẩn và mặc nhiên có nhân đức khiêm nhường – nền tảng của mọi nhân đức.

Có điều “trái khoáy” là chúng ta luôn muốn người khác lắng nghe mình nhưng mình lại không muốn lắng nghe người khác. Sao vậy nhỉ? Đó là vì ích kỷ, vì “cái tôi” lớn quá, luôn tưởng mình là “số dzách” hơn người khác về mọi lĩnh vực. Thậm chí cả với Thiên Chúa mà chúng ta cũng dám làm vậy. Thực sự chúng ta to gan, lớn mật tới mức dám làm vậy ư? Thật, không oan đâu! Chúng ta luôn xin Ngài lắng nghe mình (Tv 30:11; Tv 51:3; Tv 55:2; Tv 77:2; Tv 86:6; Tv 88:3; Tv 141:1; Tv 143:1), nhưng hiếm khi chúng ta “nhận lỗi” (Tv 51:5) hoặc “lắng nghe điều Thiên Chúa phán” (Tv 85:9), nhất là khi ý Chúa khác hẳn ý mình.

Chắc hẳn ai cũng đủ kinh nghiệm để khả dĩ biết rằng “đời là bể khổ”, thế nên lúc nào chúng ta cũng phải cầu xin Thiên Chúa thương xót: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Và rồi chúng ta phấn khởi lắm: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:4). Thế nhưng chúng ta lại thường “ngủ quên trong chiến thắng”, chẳng khác chi chín người vô ơn bạc nghĩa trong chuyện “mười người phong hủi” (Lc 17:11-21).

Tác giả Thánh Vịnh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm, lễ vật, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Ngài không đòi chi, không cần gì, vì Ngài có tất cả. Ngài chỉ muốn một điều là chúng ta PHẢI biết mau mắn thân thưa: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Chúng ta càng thu nhỏ mình thì càng được Ngài xót thương. Và đừng quên điều này: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).

Chẳng có gì vĩnh cửu vì mọi sự đều có lúc, có thời mà thôi (x. Gv 3:1-8). Ngay cả sự sống và sự tự do của chúng ta cũng vậy thôi, tới một lúc nào đó sẽ không còn. Thánh Phaolô nói: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưngtôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Thật không dễ để có thể nhận thức và tự chủ được như vậy, chứng tỏ phải có sự giằng co rất mãnh liệt. Thánh nhân giải thích cụ thể:“Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!” (1 Cr 6:13-15).

Chưa cần nói vấn đề tinh thần, các vật chúng ta đang sở hữu cũng không là của chúng ta mãi mãi. Chẳng hạn tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,… Những thứ chúng ta gọi là “của mình”, tức là mình sở hữu nó. Đúng vậy, chúng ta sở hữu chúng vì chúng ta có quyền quản lý chúng, nhưng nó mãi mãi là của chúng ta, vì một lúc nào đó chúng ta không được sở hữu chúng nữa. Phũng phàng ư, thất vọng ư, buồn ư? Đời là thế nên nó thế đấy! Sự sống chúng ta đang có mà rồi cũng chẳng giữ được thì làm sao giữ những thứ khác?

Vì thế, Thánh Phaolô khuyên: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thầnsao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6:17-20). Thân xác đủ thứ nhơ nhớp, nói ra mà thấy ngượng miệng, nhưng chính cái nhơ nhớp hèn hạ đó lại được Thiên Chúa dùng làm Đền Thờ để Ngài ngự vào – thiêng liêng và cụ thể (Thánh Thể). Chúng ta là “đền thờ” thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe và thực thi Thánh Ý Ngài. Bức tượng không thể phản đối nhà điêu khắc!

Ước gì mỗi chúng ta đều biết xác định rạch ròi: “Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể” (Tv 119:14). Tâm niệm được như vậy thì chẳng có gì lo ngại. Tất cả đều NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài!

Hôm trước, khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30). Và ông đã làm chứng với mọi người: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1:32).

Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông và thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Nghe vậy, hai môn đệ kia liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp:“Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Chắc hẳn nơi ở của Chúa Giêsu giản dị lắm, khó nghèo lắm, nhưng họ vẫn theo Ngài. Cái “thấy” của họ là sự vĩ đại của Ngài, họ sẵn sàng “lắng nghe” và “thực hiện” như Ngài.

Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói:“Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói:“Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1:42). Thánh sử Gioan giải thích rằng chữ Kêpha có nghĩa là Đá, đồng nghĩa với tên Phêrô (Pièrre = Đá).

Dù chỉ là ngư dân, chuyên chài lưới, nhưng hẳn là lão ngư Phêrô “có tướng có tá” lắm, chắc hẳn “tướng mạo” như ông phải có gì đó đặc biệt, vì Thầy Giêsu đã “thấu suốt” cả tâm địa của ông bộc trực: Nóng nảy nhưng tốt bụng. Và Ngài OK liền, “chấm” ngay. Thật vậy, dù tội chối Thầy lớn lắm, không chối một lần mà chối tới ba lần, nhưng không sao, “chuyện nhỏ” thôi, vì Chúa Giêsu vẫn luôn giàu lòng thương xót và cho ông “bù lỗ” bằng ba lần tuyên xưng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết rõ con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-18). Từ đó, lão ngư Phêrô trở thành Giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội lữ hành tại trần gian.

Hôm nay là ngày bắt đầu tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Mỗi người là một cá nhân, với tính cách khác nhau, nhưng mỗi người không là một ốc đảo, mà luôn phải hài hòa trong một tổng thể, mang tính liên đới đa dạng, kể cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Sự hiệp nhất rất quan trọng, cần thiết đối với mọi tổ chức hoặc nhóm. Ngay trong gia đình cũng vậy, thiếu sự đồng tâm nhất trí thì “ông nói gà, bà nói vịt”, gia đình khó có thể là một tổ ấm đích thực. Các cộng đoàn tu cũng vậy, mỗi người mỗi phách thì không thể là một cộng đoàn. Mỗi thành viên có biết lắng nghe thì mới khả dĩ hiệp nhất.

Đặc biệt năm nay là năm Tân Phúc Âm Hóa các giáo xứ và các cộng đoàn. Hai loại hình này là dạng “đời sống chung”, cần biết lắng nghe nhau để hiểu nhau và cùng nhau thực hiện điều mong muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu trong Vườn Dầu: “Xin cho họ nên một. Tính “nên một” được Chúa Giêsu đề cập ba lần (x. Ga 17:1-24), chứng tỏ đó là tính chất đặc biệt lắm, vì đó là tính hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi.

Lạy Thiên Chúa, xin dạy chúng con biết những quyết định của Ngài (Tv 119:108), xin giúp chúng con biết mau mắn lắng nghe lời Ngài dạy chúng con mọi nơi và mọi lúc, xin cũng giúp chúng con biết mau mắn đáp lại và sẵn sàng thực thi Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 21. Tiếng Chúa gọi

AM Trần Bình An

Olalla Oliveros, người mẫu nổi tiếng đã tham gia chụp nhiều bộ ảnh quyến rũ, diễn viên chính trong nhiều bộ phim, gương mặt của cô xuất hiện trên các tấm biển khắp Tây Ban Nha. Tuy nhiên, nữ người mẫu đã quyết định trở thành một nữ tu, gia nhập Dòng thánh Michael. Mặc dù sự nghiệp vẫn đang phát triển, nhưng Olalla Oliveros không còn cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ.

Ở tuổi 36, cô quyết định từ bỏ sự nghiệp và khoác lên mình chiếc áo nữ tu sau khi đến viếng Nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha. Không muốn nói nhiều về quyết định của mình, Oliveros chỉ cho biết cảm giác khi tới nơi này giống như có một trận động đất rung chuyển trong người: “Chúa không bao giờ sai, Ngài hỏi tôi có sẵn sàng theo Ngài và tôi không thể từ chối.”

Trên một trang web, Oliveros chia sẻ rằng cô đã có những cảm giác rất kỳ lạ. Từ sau chuyến thăm nhà thờ, hình ảnh bản thân mặc chiếc áo nữ tu luôn hiển hiện trong tâm trí Oliveros. Vì thế, cô đã quyết định từ bỏ công việc của mình để trở thành một nữ tu và đổi tên thành Olalla del Sí de María. Trên tờ El Tiempo, Oliveros chia sẻ: “Là một người mẫu bạn phải có thân hình chuẩn, là hình mẫu để mọi người noi theo. Tôi cảm thấy áp lực. Tôi cũng mệt với những lời nói dối, hình thức, một xã hội đầy bạo lực, ngoại tình, ma túy, rượu, thù oán và một thế giới đề cao vật chất, hưởng thụ, dâm dục, lừa đảo.”Oliveros cho biết thêm: “Tôi không lấy việc trở thành một nữ tu để lăng xê tên tuổi của bản thân, mà chỉ muốn trở thành một hình mẫu đề cao phẩm giá thực sự của người phụ nữ.”

Oliveros không phải là người mẫu đầu tiên quyết định từ bỏ cuộc sống bận rộn trên sàn catwalk để chọn lấy một cuộc sống bình lặng trong tu viện. Amada Rosa Pérez là một trong những người mẫu hàng đầu của Colombia trước khi trở thành một nữ tu vào năm 2005, vì cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống căng thẳng của mình. (Theo Daily Mail)

Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan tường thuật Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu những môn đệ với Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Lập tức họ được Đức Giêsu mời gọi theo Người. Rồi họ lại giới thiệu người khác đến với Chúa. Bây giờ, Đức Giêsu vẫn không ngừng mời gọi mọi người bỏ mọi sự theo Người. Điển hình như các người mẫu, diễn viên tài sắc Olalla Oliveros và Amada Rosa Pérez đã đáp lời, mặc dù sự nghiệp còn đang lẫy lừng thành đạt.

Tiếng gọi

Hôm nay, tín hữu Kitô không còn vinh hạnh được thánh Gioan Tiền Hô trực tiếp giới thiệu đến vớiChiên Thiên Chúa, như các môn đệ thuở xưa. Nhưng may mắn thay, Giáo Hội không thiếu các đấng như môn đệ Anrê, sẵn sàng tận tụy chỉ dẫn đến Đức Giêsu. Đó là những Chủ Chiên tốt lành, những tu sĩ chân chính, những tông đồ giáo dân nhiệt thành. Hoặc Chúa gửi đến những dấu chỉ riêng cho từng người. Một lời khuyên nhủ nhắc nhở của bè bạn. Một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Một gia cảnh lục đục bất an. Một thất bại cay đắng, ê chề…Vấn đề là người tín hữu có thức tỉnh, sẵn sàng và khao khát lắng nghe, tìm hiểu, giải mã dấu chỉ, để nghe được tiếng Đức Giêsu mời gọi hay không? Hay cứ đắm đuối, mải mê, mù lòa trong cõi ta bà tục lụy, thì làm sao nghe được tiếng Chúa gọi?

“Đến mà xem!” Bằng rất nhiều dấu chỉ, Thiên Chúa luôn xót thương, luôn kiên nhẫn mời gọi, luôn nhẫn nại chờ từng người đáp lại, tựa như Người Cha tốt lành trông ngóng đứa con hoang, biết ăn năn sám hối, đáp lời, mà quay trở về.

“Hãy theo Thầy!” Các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi?” (Đường Hy Vọng, số 61)

Lời đáp

“ Dạ, con đây!” Ngôn sứ Samuel đã luôn tỉnh thức, mau mắn cả ba lần đều thân thưa tiếng Chúa gọi. Một tâm hồn chân thành, tinh tuyền, trong sáng, nhạy cảm, sẵn sàng lắng nghe, đón nhận Lời Chúa, để thực thi Thánh Ý Chúa. “Xin Ngài phán, vì tôi tờ Ngài đang lắng nghe.”

Hai Tông đồ Anrê và Gioan cũng đều nhiệt thành, sẵn sàng tuân theo lời mời gọi “Đến mà xem.”Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại vời Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. (tức bốn giờ chiều ngày nay) Không chút chần chừ, so đo, suy xét, họ bỏ tất cả nghề nghiệp, huyết tộc, thân bằng quyến thuộc, dứt khoát dấn thân theo Đức Giêsu, Đấng chẳng có nhà cửa, cũng chẳng có chỗ tựa đầu nữa. (Mt 8, 20)

Đức Giêsu cũng thân thương mời gọi, an ủi, cứu giúp tất cả những ai đang khốn khổ, cực nhọc: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Vì chỉ ở nơi Người mới có sự bình an viên mãn, niềm hoan lạc, mà thế gian không bao giờ có. “Ta để lại bình an cho các ngươi ; Ta ban bình an của Ta cho các ngươi ; không phải thế gian ban cho thế nào, thì Ta cũng ban cho như vậy đâu! Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm” (Ga 14, 27)

“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng là việc Chúa chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)

Chứng nhân

Ông Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho ông Anrê. Ngài đã gặp Chúa, ở lại với Chúa dù chỉ một ngày, đã cảm nghiệm Tình Yêu tuyệt vời, nay lại tiếp tục giới thiệu cho Simon. Trước hết, ông Anrê gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia.” Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu.

Gặp gỡ Chúa, ở lại trong Tình Yêu còn gì hân hoan, sung sướng, hạnh phúc hơn? Còn gì tuyệt vời hơn được nương náu bên Người Cha chí nhân, chí thánh, nguồn cội tinh tuyền của con người? Người luôn đầy lòng thương xót, tha thứ, biến đổi, thánh hóa con người bùn nhơ, tội lỗi, bất nghĩa, bất tín, bất trung thành bạn hữu, anh em của Người. Chính vì nếm trải cảm nghiệm thần thánh, mà ông Anrê vội vàng tìm gọi em mình là Simon cùng theo, làm môn đệ Đức Giêsu cực trọng.

Có Chúa là có tất cả, dù bao phong ba cuộc đời thử thách, ngôn sứ Khabacúc vẫn trung kiên xác tín:“Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ô liu đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn. Bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, ngó vào chuồng bò bê hết sạch. Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA, hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, làm cho tôi mạnh sức, cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, và dẫn tôi đi trên đỉnh núi cao vời.” (Kb 3, 17-19)

Đức Giêsu liền sai cùng bốn mộn đệ đầu tiên làm chứng nhân, rao truyền ơn cứu độ đến mọi người, mọi dân tộc: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 17) Bởi vì “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.” (Mt 10, 8)

“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ, thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con thành tâm và tỉnh thức nghe thấy tiếng Chúa gọi. Chúng con vốn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ bị sự đời cám dỗ quyến rũ. Vậy xin Chúa tha thứ và cảm biến, đối mới chúng con, để chúng con luôn nhạy cảm nghe được tiếng gọi qua các dấu chỉ, hầu được kết hiệp cùng Chúa trong từng giây phút cuộc đời.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con hằng ngày biết lắng nghe Lời Chúa mời gọi, để tỉnh thức ăn năn, sám hối, trở về cùng Chúa luôn. Amen.

[Mục Lục]

Bài 22. HÀNH TRÌNH CỦA ĐỨC TIN

Lm Đan Vinh

I/ HỌC LỜI CHÚA

1/ TIN MỪNG: Ga 1,35-42

2/ Ý CHÍNH: CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN THEO ĐỨC GIÊ-SU.

Sau khi được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Đức Giê-su, hai môn đệ của Gio-an là An-rê và Gio-an đã đi theo đến nơi Người sống và đã ở lại với Người hôm ấy. Sau khi đã tin Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, An-rê lại giới thiệu Người với em là Si-mon. Ong dẫn em đến gặp để làm môn đệ và cộng tác với Người trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.

3/ CHÚ THÍCH:

C 35-37:+“Đây là Chiên Thiên Chúa”: Đức Giêsu là “Con chiên bị đem đi làm thịt” (x. Is 53,7), trở thành lễ vật “bị sát tế” trong cuộc khổ nạn (x. Lv 4,32). Máu Người đổ ra sẽ tẩy xóa tội lỗi và ban cho muôn người được ơn tha tội (x. Mt 26,28). Đức Giêsu cũng là người “Tôi Trung Đau Khổ” được Đức Chúa tuyển chọn và yêu mến mà ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x. Is 42,1).+Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức GiêsuHai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả là An-rê và Gio-an đã nghe lời Gio-an Tẩy Giả, từ giã thầy để theo làm môn đệ Đức Giêsu.

C 38-39: +Giờ thứ 10Người Do Thái chia ngày thành 12 giờ, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối. Giờ thứ 10 tức là 4 giờ chiều.

C 40-42: +“Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô)Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu một thời gian mà hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã xác tín Người chính là Đấng Mê-si-a như Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu. An-rê lập tức về nhà rủ em là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Mê-si-a rồi!”. Rồi ông dẫn em đến gặp Đức Giêsu. +“Anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô)Vị tôn sư có quyền thay tên của người xin theo học bằng một tên gọi mới. Tên mới này mang ý nghĩa tượng trưng mà vị tôn sư muốn cho học trò đạt được. “Kê-pha” là tiếng A-ram mà người Do Thái thời Đức Giêsu xử dụng, nghĩa là “Tảng đá”, tiếng Việt là “Phê-rô”. Đặt tên Phê-rô cho Si-mon, Đức Giê-su muốn ông sau này sẽ nên đá tảng, trên đó Người xây dựng Hội Thánh của Người (x Mt 16,18).

4/ CÂU HỎI: 1- Khi giới thiệu Đức Giê-su là con chiên Thiên Chúa, Gio-an Tẩy Giả muốn nói gì về sứ mạng cứu thế của Người? 2- Hai môn đệ của Gio-an vâng lời Thầy để theo làm môn đệ Đức Giê-su là hai ông nào? 3- Giờ của người Do thái được tính như thế nào? 4- Hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã làm gì sau khi tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai? 5- Đức Giê-su đã đặt tên Kê-pha cho ai và tên đó có ý nghĩa thế nào?

II/ SỐNG LỜI CHÚA

1/ LỜI CHÚA: Ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).

2/ CÂU CHUYỆN: GIỚI THIỆU CHÚA CHO THA NHÂN.

Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở vì bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa chính thức theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, tôi đã gặp phải trở ngại từ phía gia đình nên chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi không còn liên lạc gì nữa vì bị mất địa chỉ của ông. Từ đó, tôi để tâm tìm một người nào khác giúp đỡ. Tuy nhiên, dù đã gặp khá nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy ai sẵn sàng trao đổi với tôi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp của tôi ngày một nặng hơn. Tôi tự nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là gia nhập vào đạo công giáo. Do đó hôm nay khi nghe cô hỏi về tôn giáo thì tôi rất vui. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin theo đạo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã liên lạc và mời được một linh mục đến ban phép Rửa Tội cho ông cụ trước khi ông nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong sự thanh thản, vì giờ đây cái chết đối với ông trở thành niềm hy vọng, và là một cuộc hành trình về Thiên Đàng để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của ông.

3/ SUY NIỆM:

1/ Những cuộc giới thiệu Đức Giê-su trong Tin Mừng: Tin mừng Gio-an nhiều lần đề cập tới việc giới thiêu của ông An-rê. Hôm nay An-rê đã giới thiệu Đức Giê-su cho em ông là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41). Rồi sau đó đã dẫn em đến gặp Người. Lần khác, ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu, để rồi sau khi đã cầu nguyện tạ ơn, Người đã nhân mấy chiếc bánh và cá đó ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Rồi lần thứ ba, khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem trước cuộc khổ nạn, cũng chính An-rê đã giới thiệu mấy người Hy Lạp đến gặp Đức Giê-su, khiến Người đã nhận ra dấu chỉ đã đến giờ Người ban ơn cứu độ bằng việc chịu chết trên thập giá (x, Ga 12,31-32).

2/ Hiệu quả của việc giới thiệu Chúa cho tha nhân: Nếu An-rê không giới thiệu em ông là Si-mon với Đức Giê-su thì có lẽ Hội Thánh ngày nay không được xây dựng trên Tảng Đá dức Tin của Phê-rô. Nếu An-rê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” với Đức Giê-su, thì có lẽ sẽ không có phép lạ nhân bánh ra nhiều của Chúa Giê-su. Vậy bài học Hội thánh muốn chúng ta học nơi thánh An-rê là : Hãy giới thiệu Đức Giêsu với tha nhân và dẫn đưa họ đến gặp gỡ Người. Công cuộc rao giảng Tin Mừng thường theo thể thức: Đức Tin được truyền từ gười này đến người kia. Chúa và Hội Thánh hôm nay rất cần những tín hữu biết vững lòng tin vào Chúa và sẵn sàng chia sẻ niềm tin với người thân như An-rê đã gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).

3/ Hãy đến mà xem: Đức Giê-su không hối thúc người ta phải tin Người mà chỉ nới với họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến, đã xem thấy lối sống thân thiện, niềm nở, nồng ấm của Người. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là phát sinh một tình cảm. Khi ở với Đức Giê-su, họ cảm thấy bình an thoải mái trong tâm hồn. Nhờ tiếp xúc với Đức Giê-su, họ còn khám phá ra chính bản thân mình và quyết tâm sống theo lối sống của Người.

4/ Khác biệt giữa sự áp đặt và tự nguyện theo Chúa: Những người hành quyền trên người khác thì muốn chế ngự người khác, biến họ thành nô lệ theo ý mình. Trái lại, Đức Giê-su không gò ép ai. Người cho người ta tự do lựa chọn theo hay không theo làm môn đệ Người. Chính thái độ sống và gương sáng của Đức Giê-su đã khiến các ông tự nguyện theo làm môn đệ Người

5/ “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi”: Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao nhiều người công giáo lại không nhiệt tình nói về Chúa cho tha nhân ? Có thể là do ngại ngùng vì chưa nắm vững đức tin, sợ người kia vặn hỏi sẽ không biết giải thích ra sao. Cung có thể điều người công giáo đang quan tâm là tiền bạc vật chất hơn là đức tin tôn giáo. Họ chưa thấy được giá trị thực sự của đức tin nên dĩ nhiên không thiết tha với việc giúp người thân được niemf vui hạnh phúc giống như mình. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất là do không mên Chúa nên không cần giới thiệu Chúa, không quan tâm đến viêc “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” như kinh Lạy Cha dạy.

4/ PHÚT HỒI TÂM:

Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Tôi đã đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su chưa? Mỗi lần rước lễ tôi có cảm thấy đã gặp Chúa Giê-su Thánh Thể không?

Mỗi khi gặp một người nghèo khổ bệnh tật, tôi có ý thức Chúa Giê-su đang ở trong họ và đang chờ tôi giúp đỡ hay không?

Tình yêu dành cho Chúa ở nơi tôi bây giờ ở mức độ nào? Tình yêu ấy có sức thúc bách tôi dấn thân đem Chúa giới thiệu cho người khác như An-rê đã làm trong Tin Mừng hay không?

Nếu hiện giờ tôi đang dửng dưng với vấn đề Đức Tin là do đâu?

Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì để củng cố lòng tin cậy mến Chúa nơi bản thân và sẽ sẽ đến thăm ai để giới thiệu Chúa cho họ?

5/ LỜI NGUYỆN:

LẠY CHÚA GIÊ-SU, xin dạy chúng con hiểu rằng: Chúa luôn nhờ đến đôi tay chúng con để phân phát chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói và động viên an ủi những người bất hạnh; Chúa đang nhờ trái tim của chúng con để yêu thương những người cô đơn hay đang lạc xa Chúa; Chúa đang nhờ miệng lưỡi của chúng con để an ủi động viên những người tội lỗi đang lạc xa Chúa, để trình bày về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa, để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người kẻ nghèo hèn. Hôm nay Chúa vẫn đang cần dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa, để xoa dịu những đau thương bất hạnh và góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, giúp tha nhân vui mừng và hy vọng được sống trong Nước Trời của Chúa sau này.

X/ HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A
Đ/ XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

[Mục Lục]

Bài 23. Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em,

Câu chuyện chúng ta vừa nghe là một trong những câu chuyện đẹp nhất trong Tin Mừng.

Qua câu chuyện hôm nay, Chúa cho chúng ta thấy đâu là mục đích của cuộc sống của chúng ta trên cõi đời này.

A/ BỐI CẢNH

1/ Chúng ta nhớ lại một chút hoàn cảnh lúc xẩy ra câu chuyện:

Hôm ấy Gioan Tẩy Giả đang rao giảng và làm Phép Rửa cho dân chúng, bất ngờ Chúa Giêsu xuất hiện trước mắt ông cũng như mọi người.

Thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông vội chỉ vào Ngài và giới thiệu Chúa với mọi người. Ông mạnh dạn đưa tay chỉ về phía Chúa đang đi và nói: “Đây là chiên Thiên Chúa.” (Ga 1,36).

Được Thầy của mình giới thiệu như thế, hai môn đệ của ông đã bỏ đám đông mà đi theo. Chúa đi trước và họ theo sau. Xem chừng như Chúa cốt ý đi chậm lại để họ có thể bắt kịp Ngài. Và khi thấy họ đã ở gần bên, Chúa quay lại và mở lời trước: “Các ngươi tìm gì?” (Ga 1,38)

Họ ngỡ ngàng trước câu hỏi của Chúa. Thay vì trả lời bằng một câu khẳng định thì họ lại trả lời bằng một câu nghi vấn: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1,38)

Chúa hỏi:”Các ngươi tìm gì?”

Họ trả lời: “Thưa Thầy Thầy ở đâu?”

Rõ ràng là câu trả lời còn bị treo. Bị treo nhưng không có nghĩa đã bế tắc. Một lần nữa Chúa lại đi bước trước để khai thông vấn đề. Chúa bảo họ: “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39)

2/ Kết quả câu chuyện.

Không biết Chúa đã nói với họ những gì. Chỉ biết sau khi sống với Chúa một ngày, vâng chỉ có một này, họ ra về và tuyên bố: “Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Messia nghĩa là Đấng Cứu Thế.” (Ga 1,41)

Một khám phá bất ngờ nhưng tuyệt diệu!

+ Lúc đầu Chúa hỏi: “Các ngươi tìm gì?” Khởi đầu cuộc hành trình họ chưa thấy được mục tiêu.
+ Vào cuối cuộc hành trình thì đích điểm đã rõ ràng: Chính họ cũng không thể ngờ tới. Họ đã tìm thấy Chúa và sau đó một thời gian họ đã trở thành môn đệ của Ngài.

B/ BÂY GIỜ ĐẾN LƯỢT CHÚNG TA

Giả như Chúa hỏi: “Bạn, các bạn tìm gì?” Chúng ta sẽ trả lời với Chúa thế nào?

1/ Tìm danh

Có người đã để cả cuộc đời của mình đi tìm danh vọng. Họ sẵn sàng trả mọi giá để có được nó.

Hêrôđê là một thí dụ. Ông đã trả một giá khá cao để có được ngai vàng và để bảo vệ ngai vàng đó ngay từ lúc vừa mới lên ngôi ông đã cho thủ tiêu các thành viên trong Tòa Án Tối Cao của người Do thái. Sau đó ông đã không ngần ngại tàn sát các nhân viên trong tòa án mà không cần suy tính trước. Chưa hết vì sợ cả những người trong gia đình có thể làm nguy hại đến ngai vàng của mình ông đã giết luôn người vợ là bà Mariamne và người mẹ nàng là bà Alexandra. Giết như vậy cũng chưa đủ, ông giết luôn người con trưởng là Antipater, và sau đó là hai người con trai thứ: đó là Alexander và Aristobolus. Giết như vậy ông cũng chưa an tâm, ngay khi còn trị vì ông đã lên kế hoạch để tàn sát hết các nhân sĩ tại thành Giêrusalem khi ông lâm chung.

Và chắc hẳn anh chị em không thể nào quên việc ông đã cho lệnh giết hết các trẻ thơ từ hai tuổi trở xuống tại thành Bêlem và các vùng phụ cận chỉ vì sợ sau này một trong những đứa trẻ ấy sẽ chiếm mất ngai vàng của ông!.

Vâng đó là một thí dụ trong muôn ngàn thí dụ cho chúng ta thấy cái giá phải trả cho một cho một cuộc săn tìm danh vọng. Thế nhưng rồi cuộc đời của ông sẽ đi về đâu? Có sống mãi để ngự trên cái ngai vàng mà ông đã phải trả một giá quá đắt để bảo vệ nó không? Lịch sử cho chúng ta thấy kết cục cuộc đời của ông cũng là chốn lao tù và ông đã phải nhận một cái chết không toàn thây!

2/ Tìm tiền

Có người dành suốt đời để tìm tiền bạc. Để biện minh cho việc tìm kiếm tiền bạc là một điều chính đáng người ta đã mặc cho tiền bạc một giá trị hầu như thần thánh, có một sức mạnh vô song

Tiền là tiên là phật.
Là sức bật của lò so.
là thước đo của lòng người.
Là nụ cười của tuổi trẻ.
Là sức khỏe của người già.
Tiền là hy vọng.
Là cái lọng che thân.
Là cái cân công lý.
Tiền là hết ý.

Tiền bạc cần thật. Rất cần là đàng khác nhưng nó không phải là thần, là thánh như nhiều người tưởng.

Vua Louis XV thăm thống chế De Saxe trong cơn hấp hối.

- Nhà ngươi muốn xin gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho.

- Tâu hoàng thượng xin hoàng thượng cho hạ thần được sống thêm một giờ nữa để thanh toán các việc cho xong.

Vua Louis quyền thế nhưng cũng phải ngậm ngùi rút lui.

Ngày kia, một nhà tỷ phú trên giường chết đã phải tuyên bố:

- Trong 40 năm trời, tôi đã làm việc như người nô lệ để chất đống của cải lên; sau đó tôi lại phảicoi giữ như một thám tử và tất cả những của cải đó đã cho tôi cái gì? Thức ăn, nhà ở và quần áo…, chỉ có thế chứ không còn gì hơn nữa.

Tiền bạc cần nhưng chỉ cần như một giá trị trao đổi chứ không cần như là mục đích.

3/ Tìm lạc thú

Có người cả đời đi săn tìm lạc thú

Cha Michel Quoist bảo: “Lạc thú là một cơn đói không bao giờ biết no, một cơn khát không bao giờ thỏa.”

Augustinô lúc còn trai trẻ đã nếm đủ hết mọi thứ lạc thứ ở trên đời. Nhưng rồi cũng chính chàng thanh niên đó sau khi đã chán ngán với những thứ mình đã hưởng thụ phải thốt lên: “Hỡi Augustinô! Khi săn đuổi lạc thú ngươi đã tìm thấy cái gì?”

- Thomas Merton: Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản. Ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, lạc thú. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại”. Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.

Vâng! Danh vọng, tiền bạc và lạc thú… Các nhà tu đức học thường gọi là danh lợi thú là như thế.

Nếu anh chị em có theo dõi những biến chuyển xẩy ra ở một số nước Bắc Phi gần đây thì anh chị em đã phải thấy, những con người như tổng thống Mubarak ở Ai Cập, tổng thống Gadahfi ở Lybie nào họ có thiếu gì thế nhưng cuộc đời của họ kết thúc như thế nào thì mọi người đã biết.

Còn hai môn đệ của Gioan thì sao?

Hai môn đệ của Gioan đã gặp được Chúa.

Chúa không dẫn họ đến giầu sang,

Nhưng cho họ thấy thế nào là một cuộc đời có ý nghĩa để họ tự chọn.

Charles Fox: “Những người tư cách như thế sẽ lưu danh muôn thuở trong khi bọn vua chúa và mũ miện của họ đội trên đầu đều đã trở thành cát bụi”.

Họ không tìm của cải nhưng hỏi có gia tài nào sánh được với gia tài nuớc trời của họ hay không?

Họ đã không đi tìm danh vọng nhưng thử hỏi còn có chỗ nào cao trọng địa vị mà họ có hôm nay trên thiên quốc hay không?

Họ không đi tìm lạc thú nhưng thử hỏi có niềm vui hạnh phúc nào so sánh được với niềm vui và hoan lạc mà họ đang có hôm nay không?

Xin được kết thúc bằng lời khuyên của Mẹ Têrêsa: “Hãy tìm Chúa Giêsu, bạn sẽ tìm thấy sự an bình. Đừng cho phép bất cứ điều gì cản trở tình yêu của bạn dành cho Chúa Giêsu. Ngài là niềm vui và sức mạnh của bạn. Hãy đến với Ngài để được yêu thương, được thông cảm và có được lòng can đảm đáp lại tiếng gọi của Ngài bằng một từ giản dị: “xin vâng”.

[Mục Lục]

Bài 24. “Đây là Chiên Thiên Chúa”

Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự, TGP Sài gòn

I/ CÁC BÀI ĐỌC

1/ Bài đọc 1: 1Sm 3,3b-10.19

Trình thuật nói đến ơn gọi của Samuel, thuộc thể loại ơn gọi ngôn sứ (Is 6; Gr 1,4-10; Ed 1,1-3,16). Trình thuật ơn gọi này được đặt trong bối cảnh có sự tương phản ngày càng rõ nét giữa nhà Êli và Samuel. Hai con ông Êli làm nhiều điều xấu trước nhan Đức Chúa: đối xử bất minh với toàn dân Israel, khinh thường những lễ phẩm dâng lên Đức Chúa (x. 1Sm 2,12-17); ăn nằm với những phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ (x. 2,22); chẳng chịu nghe lời khuyên răn của cha họ là tư tế Êli mà hối lỗi sửa mình (x. 2,25). Còn cậu Samuel thì “càng lớn lên và đẹp lòng cả Đức Chúa lẫn người ta” (2,26).

Đức Chúa quyết định chọn gọi Samuel để thay thế nhà Êli, vốn đã ra hư hỏng. Samuel nghe tiếng Đức Chúa gọi vào thời “lời Đức Chúa thì hiếm và thị kiến cũng không hay xảy ra” (3,1). Hơn nữa, vì “Samuel chưa biết Đức Chúa và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (3,7), nên cậu không dễ dàng nhận ra Đấng đang gọi mình là ai. Ba lần Đức Chúa gọi cậu, nhưng cậu lầm tưởng là tư tế Êli gọi mình. Sau lần gọi thứ ba này, cậu Samuel đã nhận được lời hướng dẫn cụ thể của tư tế Êli, chỉ cho cậu biết cách phải trả lời ra sao trước tiếng gọi mầu nhiệm ấy (x. 3,9).

Đức Chúa lại gọi Samuel lần thứ tư một cách thân tình và dịu dàng như ba lần trước đó: “Samuel! Samuel!” (3,10). Lần này, Samuel đã thưa như lời tư tế Êli dạy: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (3,10). Không biết có phải vì bối rối không, mà trong lời đáp của mình Samuel đã bỏ xót tiếng thưa “Lạy Đức Chúa” như trong lời chỉ dẫn của vị tư tế già (x. 3,9). Tuy nhiên, sau sự kiện này, Đức Chúa hằng ở bên Samuel và Lời Người đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đời Samuel, trở thành kim chỉ nam để ông sống và hướng dẫn dân Chúa, như lời Kinh Thánh nói: “Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu” (3,19).

2/ Bài đọc 2: 1Cr 6,13c-15a.17-20

Trong thư thứ nhất của thánh Phao lô tông đồ gửi tín hữu Côrintô, đoạn trích mà chúng ta vừa nghe xuất hiện trong đơn vị văn chương bàn về chuyện tính dục và những vấn đề liên quan (1Cr 5,1-7,40). Với 1Cr 6,13c-15a.17-20, vị tông đồ dân ngoại bàn đến ý nghĩa cao quí của thân xác chúng ta, và qua đó, Ngài kêu gọi tín hữu Côrintô sống sao cho xứng hợp với thân xác của mình.

Thánh Phao lô nêu một loạt các xác tín của Ngài về ý nghĩa của thân xác chúng ta:

1) Thân xác của chúng ta có Thiên Chúa làm chủ (x. c14); thân xác sẽ được Người làm cho sống lại như chính Người đã cho Đức Kitô sống lại (x. c14)

2) Thân xác chúng ta là phần thân thể của Đức Ki-tô (x. c15); một khi được kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người (x. c17)

3) Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (x. c19)

Vì thân xác chúng ta cao quí như vậy trước mắt Thiên Chúa, nên chúng ta phải sống sao cho xứng hợp với nó: thân xác không phải để gian dâm (x. c14.18), không phải để nên một thân xác với kỹ nữ (x. c16), nhưng để phụng sự Chúa (x. c14), để tôn vinh Thiên Chúa (x. c20).

3/ Bài Tin Mừng: Ga 1,35-42

Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật thứ II Mùa Thường Niên năm B xuất hiện ngay sau Lời chứng của Gioan Tầy Giả về Chúa Giêsu (Ga 1,19-34) và trước Tiệc Cưới Cana (Ga 2,1-12). Lời chứng của Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta nhận ra sự trổi vượt của Chúa Giêsu so với Gioan về phẩm tính, sứ mạng và cách thức thực hiện sứ mạng:

1/ Gioan tuyên bố về mình: Ngài không phải là Đức Kitô (1,20), nhưng là “tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (1,23); Ngài làm phép rửa bằng nước (1,26); Ngài “không đáng cởi quai dép” cho Đấng trổi vượt hơn Ngài (x. 1,27).

2/ Gioan tuyên bố về Chúa Giêsu: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (1,29); Người là Đấng đến sau Gioan nhưng trổi vượt hơn Ngài vì có trước Ngài (1,30); Người là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần và là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (1,34).

Nếu như ở Ga 1,29-34, Gioan đã làm chứng về Chúa Giêsu chính yếu cho đám đông dân chúng, thì ở đoạn Tin Mừng 1,35-42 hôm nay, lời chứng của Ngài trực tiếp nhắm đến hai người môn đệ của mình. Ngài lập lại lời chứng về Chúa Giêsu, nhưng có phần ngắn gọn hơn, xoáy sâu vào phẩm tính của Người: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (1,36; ss. 1,29). Nghe lời chứng ấy, hai môn đệ liền đi theo Chúa Giêsu.

Khi được hỏi “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu?” Chúa Giê su đã mời gọi hai môn đệ này: “Hãy đến mà xem” (e;rcesqe kai. o;yesqe). Lời mời gọi rất ngắn gọn, độc nhất vô nhị này trong toàn bộ Kinh Thánh (trong tiếng Hilạp chỉ có từ và xuất hiện chỉ có một lần) chất chứa nhiều ý nghĩa. Chúa Giêsu muốn để hai môn đệ này tận mắt chứng kiến chỗ Người ở, và khi ở lại với Người họ sẽ cảm nhận được Người là ai. Hai người môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã can đảm thực thi lời mời gọi ấy. Sách Tin Mừng thứ tư đã ghi lại kỷ niệm đặc biệt này, bằng cách xác định một cách cụ thể thời điểm họ đã đến với Chúa Giêsu: “lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (1,39).

Sau kinh nghiệm ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm ấy, hai môn đệ của Gioan giờ đây trở thành hai môn đệ của Chúa Giêsu. Anrê, một trong hai người môn đệ này, đã nghiệm thấy Đức Giêsu chính là Đấng Kitô. Niềm vui gặp gỡ và niềm xác tín ấy, Anrê không muốn chỉ giữ lại cho mình, nhưng mau mắn chia sẻ cho người em của mình là Simon.

Khi giới thiệu về Chúa Giêsu cho Simon, Anrê đã cho thấy lời ngài nói không chỉ là xác tín cá nhân, nhưng là xác tín của cả hai người môn đệ: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messiah” (eu`rh,kamen to.n Messi,an). Động từ “tìm thấy” hay “gặp được” ở đây được dùng ở thể hoàn thành, như thể hàm ý tác động của lần gặp gỡ này vẫn đang in đậm trong tâm hồn của hai người môn đệ vào lúc này. Họ không thể không chia sẻ tác động đặc biệt này cho người khác.

Anrê không chỉ cung cấp thông tin “chúng tôi đã gặp Đấng Messiah” cho Simon biết. Điều Ngài thực sự muốn thực hiện là dẫn dắt Simon đi từ thông tin đó đến việc gặp gỡ chính Chúa Giêsu (x. 3,42). Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Simon cũng rất đặc biệt. Khi thấy Simon, Chúa Giêsu gọi đích danh ông, và đồng thời đổi tên cho ông: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (3,42).

Theo Tin Mừng Mátthêu, tại vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Simon được đổi tên sau biến cố Ngài tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,16-18). Việc đổi tên ấy gắn liền đặc biệt với sứ mạng của Phêrô đối với Giáo Hội: “Anh là Phê rô, nghĩa là Tảng Đá, và trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19). Còn theo Tin Mừng Gioan, Simon đã được đổi tên ngay từ lần gặp gỡ được kể là đầu tiên này với Chúa Giêsu, gần như ngay sau lời tuyên xưng của anh mình là Anrê: “chúng tôi đã gặp Đấng Messiah”. Trong cả hai trường hợp, tên mới của Simon (Kêpha hay Phêrô) đều gắn liền với niềm tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Messiah (Đấng Kitô), và không ai khác hơn chính Chúa Giêsu đã đặt tên mới cho Simon.

II/ GỢI Ý MỤC VỤ

1/ Tư tế Ê li có thể “mắt đã mờ”, hay những lời ông răn dạy hai con mình có thể đã bị họ bỏ ngoài tai (x. 1Sm 2,25), nhưng những chỉ dẫn của ông cho Samuel trước tiếng Chúa gọi lại rất thiết thực và có ý nghĩa đối với Samuel. Bạn có nghĩ rằng chúng ta luôn cần mở lòng ra để lắng nghe tiếng Chúa qua sự chỉ dẫn và gợi ý của nhiều người, đôi khi đó là sự chỉ dẫn của những người xem chừng đang mất dần ảnh hưởng hay không quan trọng lắm? Bạn đã có một trải nghiệm tương tự?

2/ Nơi cuộc đời của Samuel, Thiên Chúa không để cho Lời nào của Người ra vô hiệu. Còn nơi cuộc đời tôi thì sao, Lời Chúa được gieo vào lòng tôi có tìm được mảnh đất mầu mỡ để lớn lên, để sinh hoa kết trái? Làm sao để Lời Chúa cũng không trở nên vô hiệu nơi cuộc đời tôi?

3/ Ơn gọi của người Kitô hữu là sống thiết thân với Chúa mỗi ngày. Ơn gọi ấy mời gọi và đòi buộc chúng ta sống chiều kích thánh thiêng ngay cả ở nơi thân xác. Tôi đã sống được những điều thánh Phaolô xác tín về thân xác chưa? Làm thế nào để nên thánh trong môi trường hiện nay, vốn có không ít những cám dỗ có thể khiến cho thân xác tôi dễ dàng ra ô uế?

4/ Gioan Tẩy Giả sẵn sàng để hai môn đệ của mình theo Chúa Giêsu. Ngài giới thiệu về Chúa Giêsu cho họ và để họ được tự do chọn lựa bước đi theo vị Thầy mới. Tôi đã có được tinh thần “quảng đại dám cho đi” của Gioan Tẩy Giả chưa? Hay tôi cứ khư khư giữ lấy những người hay những gì thuộc về mình, thay vì đem họ hay trả họ về cho Thiên Chúa để họ tìm được Đấng Cứu Độ đích thực?

5/ “Đến mà xem” cũng là lời mời gọi của Chúa Giêsu cho từng người chúng ta hôm nay. Tôi có được thái độ sẵn sàng như hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả không? Tôi có đủ cam đảm làm chứng về Chúa Giêsu hay giới thiệu Chúa Giêsu cho tha nhân trong môi trường sống hiện nay?

III/ LỜI NGUYỆN CHUNG

Chủ tếAnh chị em thân mến! Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi con người cộng tác vào công cuộc xây dựng vương quốc Thiên Chúa nơi trần gian. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và chân thành dâng lời cầu nguyện cho chúng ta cùng cho mọi người:

1/ Hội Thánh có sứ mạng giới thiệu Đức Kitô cho thế giới hôm nay. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn cùng mọi thành phần trong Hội Thánh, luôn trung thành với ơn gọi căn bản của mình là loan báo và làm chứng về Đức Kitô cho con người thời đại.

2/ Trong ngày khai mạc tuần lễ cầu nguyện cho các Kitô hữu hợp nhất, chúng ta cùng cầu xin cho mọi người đang và sẽ tin nhận Đức Giêsu Kitô là Chiên Thiên Chúa và là Đấng xóa tội trần gian, luôn hợp nhất với nhau trong cùng một đức tin và một nguồn sống.

3/ Đến và ở lại với Chúa là đòi hỏi cần thiết cho hành trình ơn gọi kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai thành tâm thiện chí, cách riêng các bạn trẻ, biết dành thời gian đến với Chúa và thực sự gặp được Ngài qua các cử hành phụng vụ, nhất là hy tế Thánh Thể.

4/ Người môn đệ đích thực phải biết chia sẻ niềm vui Tin Mừng cho những người chung quanh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn hăng hái nhiệt tình trong các hoạt động tông đồ bác ái nhằm đem nhiều người đến với Đức Kitô.

Chủ tếLạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã chọn gọi chúng con vào hàng ngũ những người được vinh dự gọi Chúa là Cha. Xin thương nhậm lời chúng con cầu nguyện, và ban những ơn cần thiết giúp chúng con luôn sống xứng đáng với ơn gọi kitô hữu của mình. Chúng con cầu xin nhờĐức Kitô, Chúa chúng con.

 

[Mục Lục]


Trở lại      In      Số lần xem: 6284
Tin tức liên quan
Tin tức mới cập nhật
Video
Trở Lại Đi Con Ơi ! - Ca Đoàn Thánh Gia
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  23
 Hôm nay:  2756
 Hôm qua:  3396
 Tuần trước:  25660
 Tháng trước:  108657
 Tất cả:  12368421

Copyright @ 2013 Giáo Dân Tân Thái Sơn

Mọi ý kiến đóng góp và bài viết xin vui lòng gửi qua Email: Canhtanthaison@gmail.com

Thiết kế bởi webso.vn