Giáo xứ Tân Thái Sơn  - Giáo Hạt Tân Sơn Nhì - Giáo Phận Sài Gòn - LM chính xứ: Phêrô Lê Hoàng Chương  - LM Phó xứ: Gioan Baotixita Trần Nhật Thanh - Andre Nguyễn Công Thái  -  "KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH." (Ga:15,13) Ave Ma-ri-a - "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." (Lc 11, 28) - Thành Lập Và Quản Trị Trang Web: Giuse Trần Đình Cánh.

Các Bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A

Các Bài Chú Giải và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A 

Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật XVII thường niên – năm A
Lời Chúa: 
1 V 3,5.7-12; Rm 8,28-30; Mt 13,44-52
***************

MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Giá trị vô song
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
3. Khôn ngoan là biết chọn Chúa làm gia nghiệp (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
4. Khám phá Kho Báu Tin Mừng (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
5. Kho báu của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
6. Khôn ngoan (P. Trần Đình Phan Tiến)
7. Người khôn ngoan thì biết chọn lựa đúng (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
8. Lưới cá hay lưới người? (JM. Lam Thy ĐVD.)
9. Kho báu Nước Trời là Đức Kitô (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Phải dấn thân để chiếm đoạt Nước Trời (Đỗ Bá Công)
11. Khôn ngoan đích thực (Lm. Đam Trần Văn Điều)
12. Nước Trời giống như kho báu (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
13. Nước Trời (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
14. Nước Trời quý giá (Đam. Lê Đức Thiện)
15. Bán tất cả để mua viên ngọc quý (Đỗ Lực)
16. Suy niệm của Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
17. Kho báu – Viên ngọc quý (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
18. Ăn xin (Lm. Vũ Đình Tường)
19. Kho báu ẩn dấu và viên ngọc quý (Lm. Pietro Nguyễn Hương)
20. Hạnh phúc trong tầm tay (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
21. Khôn ngoan tìm Nước Trời (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
22. Kho báu và ngọc quý (R. Veritas)

23. Lưới cá hay lưới người? (JM. Lam Thy ĐVD.)
24. Mạo hiểm chiếm hữu kho báu vô tận (AM Trần Bình An)

25. Hãy làm mọi sự để có được Nước Trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
26. Khôn ngoan chọn lựa hạnh phúc Nước Trời (Lm. Đan Vinh)
27. Mua lấy Nước Trời (Lm Đa-minh Trần Đình Nhi)

 

 

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (1 V 3,5.7-12)

5 Tại Ghíp-ôn, đang đêm Đức Chúa hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn, Thiên Chúa phán : “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” 7 Và bây giờ, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đa-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. 8 Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. 9 Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái ; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế ?” 10 Chúa hài lòng vì vua Sa-lô-môn đã xin điều đó. 11 Thiên Chúa phán với vua : “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, 12 thì này, Ta làm theo như lời ngươi : Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp.

Bài đọc II (Rm 8,28-30)

28 Thưa an hem, chúng ta biết rằng : Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. 29 Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. 30 Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi ; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính ; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.

Tin Mừng (Mt 13,44-52)

44 Hôm ấy, Đức Giê-su kể cho dân chúng nghe dụ ngôn này : “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

45 “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. 46 Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.

47 “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. 48 Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. 49 Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, 50 rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

51 “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không ?” Họ đáp : “Thưa hiểu.” 52 Người bảo họ : “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”

[Mục Lục]

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: GIÁ TRỊ VÔ SONG

Nước Trời là một điều thiện hảo được đặt vừa tầm tay mọi người, nhưng không phải là mọi người đều “tìm thấy” Nước Trời, bởi vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm Nước Trời.

1. Ngữ cảnh

Diễn từ của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó khăn và những ngờ vực xuất phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện tại và các nỗi chờ mong nhắm đến Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng định, thì tại sao sứ điệp của Người không được mọi người vui mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một loạt những chiến thắng lẫy lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong dụ ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có thể sinh hoa kết quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ điệp cốt yếu tùy thuộc những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc cách sống của họ. Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.

2. Bố cục

Có thể chia bản văn thành ba phần:

1) Ba Dụ ngôn

a) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44),

b) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46),

c) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48).

2) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50).

3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).

Hoặc cũng có thể cho rằng bản văn có năm đơn vị:

1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44);

2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46);

3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48);

4) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50);

5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).

3. Vài điểm chú giải

- Nước Trời giống như một kho báu (44): Không phải là Nước Trời được ví với một kho báu, nhưng là “những gì xảy ra” khi một người khám phá ra một kho báu được so sánh với “những gì xảy ra” (hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra Nước Trời.

- kho báu chôn giấu trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó, thỉnh thoảng, có người khám phá ra một khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn mộtcái chum chứa những đồng tiền vàng hay các loại đá quý.

- thương gia (45): Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào thời Đức Giêsu, ngọc quý thường được nhập từ Ấn Độ.

- chiếc lưới (47): Sagênê, “chiếc lưới”, có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi dây.

- thả xuống biển (47): Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe aoriste passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy có nghĩa là chiếc lưới đã được thả xuống biển rồi, và do chính Thiên Chúa thả.

- Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn Người gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho động từ “hiểu”. Ở đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói bằng dụ ngôn cho đám đông. Câu trả lời thật gọn: “Thưa hiểu (Nai)”. Ngữ cảnh cho thấy là những người trả lời là những môn đệ đã hỏi Đức Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi không nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ bất cứ độc giả nàobất cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta đi từ tình trạng “đám đông” sang tình trạng “môn đệ”.

- kinh sư (52): Cộng đoàn Mt đã có những định chế (“Nhóm Mười Hai”: 10,1; Phêrô: 16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các “thầy dạy” được gọi là “kinh sư” vì cộng đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của mình.

4. Ý nghĩa của bản văn

Các câu dẫn nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải, Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất giống nhau.

* Dụ ngôn 1 và 2: Kho báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)

Những gì Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và ngọc quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể đây là mộtngười thợ đi cày trong ruộng của người khác và đã khám phá ra mộtkho tàng gồm các đồng tiền và vật trang sức được chôn trong ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không bao giờ dám mơ tới khối của cải này. Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng là việc ông sẽ làm bây giờ.

Ông sẵn sàng hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa ruộng. Cách xử sự của nhân vật này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều này không làm tác giả bài dụ ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh của đời thường, như sau này Người kể truyện người quản lý bất lương, những người làm vườn nho sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta thấy rõ nơi truyện người đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân lý. Trong cả hai trường hợp (khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn đề được đề cập là khám phá ra và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện mộtngười hết sức vui sướng hy sinh tất cả những lợi lộc và vận dụng mọi phương tiện mà thủ đắc một điều gì; “ông bán tất cả những gì mình có” (cc. 44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là điểm ấy. Đấy chính là Nước Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.

Trong sứ điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong tay. Mặc dù thế giới đang có những vô trật tự, những sự dữ và những tai họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và muốn ban cho chúng ta được thành công trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước tiên phải được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại này chính là mộtkho báu được chôn giấu; tự nó, nó không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi cuốn hơn nhiều, dường như quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh phục bởi sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối với chúng ta và sự hiệp thông của chúng ta với Ngài có mộtgiá trị vô song và không bao giờ bị vượt quá. Với sự hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia tăng ước muốn được đi vào làm chủ mộtgiá trị như thế.

Kho báu ấy không phải là phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn, mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta phải đặt chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên tất cả mọi sự, cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui… không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào trong dây liên kết với Thiên Chúa và được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa, mà chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui, cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với công việc và phải từ bỏ nhiều điều.

* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (47-50)

Dụ ngôn Chiếc lưới song song với dụ ngôn Lúa tốt vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn trước, “cánh đồng” tượng trưng Nước Trời; trong dụ ngôn sau là “chiếc lưới”.

Tại hồ Ghennêxarét, có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn được, có thứ không. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng luôn luôn như thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi lựa: cá tốt thì được gom lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế “ngồi” của các dân chài có thể khiến nhớ tới tư thế “ngồi” Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31; 26,64). Các tính từ “tốt” (kalos) và “xấu” (sapros, “vô ích”) khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái của chúng (x. 7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau của người tốt và người xấu. Ở đây, trên mặt đất này, dường như chúng ta có quan tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì; giữa người tốt và người xấu, không hề có sự phân biệt nào. Dường như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu, tượng trưng Nước Trời, là một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy sống hôm nay thế nào để khi đến cuối, anh em được Thiên Chúa đón nhận!

Thật ra, việc Người giảng dạy đã là một tiên báo về phán xét: Người đang ở tại “hồ” (13,1-2), có một đám đông “đã tụ họp lại” (“gom cá”) trên bờ, trong khi Đức Giêsu “ngồi” trên thuyền và nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã gây ra sự phân biệt giữa dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân biệt này báo trước cuộc phán xét sau này. Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.

Kết luận dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên mộtchi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: “các thiên sứ sẽ … quăng kẻ xấu vào lò lửa” (x. 13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì sự hiện diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi họ bằng cách cho biết rằng cuộc phán xét cánh chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ tái lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.

* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)

Dụ ngôn Vị kinh sư này là một câu trả lời cho câu hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ là những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu. “Hiểu” không chỉ có nghĩa là “nắm được ý nghĩa” mà còn là “chấp nhận”, “làm cho nên hiện thực trong đời sống mình”. Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành những người thực sự bước theo Đức Giêsu, họ đã là “con cái Nước Trời” (c. 38). Do đó, họ cũng là những kinh sư mới, những thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia) lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình. Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.

+ Kết luận

Tất cả các dụ ngôn đều nói với chúng ta về Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng cho thấy rằng việc từ bỏ theo Tin Mừng không phải là phương tiện để đạt tới Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.

Sự lộn xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết bao giá trị và mục tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc. Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người cho thấy điều gì là quan trọng, chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của mình vào chuyện gì. Điều quan trọng là luôn luôn sống với tinh thần trách nhiệm và đặt quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc không hề nao núng.

5. Gợi ý suy niệm

1. Vấn đề không phải chỉ là dời các giá trị khác ra phía sau để nhường bước cho giá trị lớn là Nước Trời, nhưng là coi mọi sự khác không còn giá trị nữa trước giá trị duy nhất là Nước Trời. Người ta chỉ thật sự là Kitô hữu nếu hiểu rằng Nước Trời là “tất cả” trong cuộc đời, cần thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết như thế là “hoán cải”, thay đổi lòng trí. Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm ngắm sự cao cả của Nước Trời thì không đủ, còn cần phải quyết định, phải chọn lựa, phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy giá trị này. Truyện người thanh niên giàu có minh họa rất rõ điểm này (Mt 19,21.27.29).

2. Nước Trời là một điều thiện hảo được đặt vừa tầm tay mọi người, nhưng không phải là mọi người đều “tìm thấy” Nước Trời, bởi vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm Nước Trời. Tìm kiếm là điều kiện thiết yếu để có thể gặp được Nước Trời (x. Mt 10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều này đúng ngay cho cả bình diện trí thức: khi nghiên cứu, nếu chúng ta không có ý tìm điều gì, thì chúng ta sẽ không thấy các trang sách nói gì cả; chỉ khi nào cố ý tìm một điểm gì đó, chúng ta mới thấy sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù vậy, Nước Trời không phải là kết quả đương nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước Trời vẫn là một ân ban.

3. Niềm vui là tiêu chuẩn cho thấy người ta đang kinh nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi có thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm nhận khi nghe được sứ điệp về Nước Trời: tôi có vui mừng không? Các giá trị Nước Trời đã đi vào đời tôi, tôi có cảm thấy vui không? Ai có Thiên Chúa thì có tất cả; Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác tín về điều này chăng? Do đang còn mang não trạng “thế gian”, do đang lo lắng sợ mất điều gì đó hoặc thiếu điều gì đó, do cứ muốn nắm được mọi sự trong tay, do muốn lên chương trình sống hoàn toàn theo ý mình, chúng ta có thể đang còn vấp phải dữ kiện căn bản này: một mình Thiên Chúa có thể lấp đầy một con tim hiến dâng trọn vẹn cho Ngài.

4. Cuộc sống con người ở trần gian còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Một ngày nào đó, khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc sống thật của người ta còn đang được che giấu dưới mộtcái mặt nạ đạo đức, nhưng đến ngày đó, “mặt thật” của con người sẽ lộ rõ: người ta chỉ hoàn toàn là “xấu” nếu tận đáy lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì tìm kiếm mộtmình Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.

Chúng ta có thể dựa vào lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: xin ban cho con “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi người Ki-tô hữu phải đạt cho bằng được.

1V 3: 5, 7-12

Để có đủ sức cai trị dân Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn cầu Thiên Chúa cho ông có được “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái”.

Rm 8: 28-30

Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho những ai yêu mến Ngài.

Mt 13: 44-52

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu cho bằng được Nước Trời.

BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12

Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”, như chính ông thân thưa với Chúa về mình trong lời cầu nguyện của ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi mười hai.

1. Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:

Vua đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một giấc mộng.

Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy trong thời các tổ phụ như tổ phục Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng cho chúng ta ghi nhận rằng cách thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong các sách khải huyền vào những thế kỷ muộn thời hơn.

2. Lời khẩn nguyện của vua Sa-lô-mon:

Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi. Vua không cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu sang hay được quyền lực, nhưng “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để vua có đủ sức cai trị dân Ngài, “một dân đông đúc, không kể xiết, cũng không đếm nổi”.

Như người cày thuê gặp được kho báu trong ruộng hay một thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa đã nhận lời cầu xin của vua, vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua không xin sự giàu sang phú quý, hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho vua những điều đó.

3. Tính chất thần học của chuyện tích:

Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua đã tra cứu những tài liệu và đã thu thập những truyền thống miệng, suốt thời gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.

Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu không muốn tôn một người trần thế lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng để thể chế quân chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là vị quân vương phải nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài”. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.

Thứ nữa, tước vị con vua Đa-vít cao quý được ban tặng cho vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang của vua hiển nhiên là lời đáp trả của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều đại của vua này, cầm tay vị vua bé nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại lịch sử này, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử Thánh.

BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30

Đoạn văn này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về tình yêu của Thiên Chúa. Đây là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy luận thần học về tiền định.

1. Vấn đề:

Phải hiểu những lời này của thánh Phao-lô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, Con của Người, để Đức Ki-tô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?

Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn văn này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phao-lô lấy lại sự phát triển của mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và trên sự vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ ngữ “ý định” (prothesis) luôn luôn được thánh Phao-lô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người, có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không có bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định phải chịu kết án cả.

2. Tình yêu của Thiên Chúa:

Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho họ”. Ơn ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời hiện tại. Từ ngữ “mọi sự”, đối lập với “ơn ích”, chỉ những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.

Ngay cả khái niệm yêu mến ở nơi những lời: “Những ai Người đã biết từ trước” luôn luôn có một âm vang của việc tuyển chọn phát xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời gian, Ngài phân định những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.

3. Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:

Một lần nữa, thánh Phao-lô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Ki-tô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Ki-tô, con người được “phục hồi hình ảnh và họa ảnh nguyên thủy” của mình.

Tiếp đó, thánh Phao-lô trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ đức tin, ơn công chính hóa và vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt vinh quang tương lai ở thì quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Về việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này, chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức Giê-su nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11: 24).

Vì thế, theo thánh Phao-lô, nếu có tiền định, thì không gì khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang, đó là cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.

TIN MỪNG Mt 13: 44-52

Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài về các dụ ngôn của Đức Giê-su.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.

1. Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý:

Hai dụ ngôn này được biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến việc loan báo Nước Trời và sự phát triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu là thể văn“miêu tả”. Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là những “lời khuyến dụ” được gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn trương và quyết liệt, nhằm biến đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Ki-tô là ngay tức khắc, không thể nào chần chừ được nữa. Vì thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể hiểu. Với sự hiện diện của Đức Ki-tô, Nước Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.

2. Dụ ngôn chiếc lưới:

Dụ ngôn chiếc lưới mô tả rất thực nghề đánh cá. Đây cũng là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại những kỷ niệm xưa kia của mình khi họ còn là những ngư phủ trên biển hồ Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo những hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất để chọn lựa cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo giống chờ đợi mùa gặt để thu những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và Giáo Hội nối tiếp bước chân của các ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong phần kết của dụ ngôn này, số phận dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những ngôn từ như trong phần kết dụ ngôn cỏ lùng.

Để kết luận, thánh Mát-thêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giê-su. Vì có được một kiến thức Kinh Thánh rất phong phú, người kinh sư biết giá trị của những thiện hảo mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng Mát-thêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.

[Mục Lục]

Bài 3. KHÔN NGOAN LÀ BIẾT CHỌN CHÚA LÀM GIA NGHIỆP
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Chúng ta thường đọc thấy trên trác phương tiện truyền thông hay báo chí rất nhiều những tin đồn như ở nơi này, nơi kia có kho báu gồm: vàng, bạc, kim cương cũng như cổ vật. Khi nghe tin đồn như thế, không ít người đã làm mọi cách và dùng mọi chiến thuật để mong sao đạt được điều mà họ đang hy vọng. Còn đại đa số con người ngày nay thì kho báu của họ có lẽ là: tiền, tài, tình. Vì thế, cũng đã không ít người hăng say, lăn xả để chiếm đoạt cho kỳ được.

Với người kitô hữu chúng ta, kho tàng là gì? Làm thế nào để chiếm hữu?

1. Ý nghĩa của các dụ ngôn

Dụ ngôn “kho tàng” và “viên ngọc quý” là một trong hàng loạt dụ ngôn Đức Giêsu dùng mặc khải về Nước Trời. Bên cạnh đó, dụ ngôn “chiếc lưới” cũng giúp cho chúng ta hiểu thêm về sự kiên trì của Thiên Chúa và giá trị của những người được chọn trong ngày sau hết.

Qua ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn ám chỉ “kho tàng” trong thửa ruộng chính là Nước Trời, còn Đức Giêsu chính là “viên ngọc quý”.

Người lái buôn đi tìm ngọc và anh thanh niên tìm kho tàng chính là những người có đức tin, khao khát chân lý và hạnh phúc thật.

Trong công cuộc tìm kiếm này, không phải chuyện dễ dàng để gặp được. Vì thế, người tìm kiếm phải có tài, có đức và phải kiên trì, trung thành.

“Kho tàng” và “ngọc quý” vẫn có đó, nhưng có khi có người tìm thấy sớm, có người thấy muộn và cũng có kẻ đến giờ phút chót không thấy được.

Thật vậy, con người khi đã có khát khao, nhất là sự khao khát đó lại được nuôi dưỡng trong sự chờ đợi, hy vọng, thì khi tìm được, người ta đã phải bán hết mọi sự mình đang có để mua, với ý thức rằng có “kho tàng” và “ngọc quý” là có tất cả.

Khi mua được rồi, họ đâu còn tiếc nuối công khó với mồ hôi và nước mắt mà họ đã đổ ra trên hành trình tìm kiếm.

2. Sự khôn ngoan của con cái Chúa

Anh thanh niên và người lái buôn quả là người khôn ngoan. Sự khôn ngoan của họ rất giống với vua Salomon mà bài đọc I đã đề cập đến. Ông đã không xin Chúa sức khỏe, tiền tài và danh vọng, cũng như những thứ có giá trị ở đời, nhưng ông đã xin Chúa sự khôn ngoan. Lòng chân thành của ông đã được Chúa nhận lời và người đã ban cho ông gấp trăm ngàn lần. Như vậy, có sự khôn ngoan, ông có tất cả.

Đức tin là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Biết xử dụng đức tin trong đời sống qua các mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân là người khôn ngoan. Bởi vì nhờ có đức tin, chúng ta biết mình và biết Chúa. Biết mình giới hạn và biết Chúa quyền năng. Biết sự sống đời này là hữu hạn và sự sống đời sau sẽ trường tồn. Người khôn ngoan theo Kinh Thánh là người sẵn sàng để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời mình.

Tuy nhiên, con người ngày nay, mấy ai để cho Lời Chúa được lớn lên, sinh hoa kết trái như ý Chúa???

Họ là những con người lầm lạc, sự khôn ngoan của họ là sự ngu đần trước mặt Thiên Chúa. Khôn ngoan của những người này chính là “Khôn ngoan của con cái tối tăm” họ thực hiện điều họ cho là khôn ngoan trong tội lỗi, và như một hệ lụy, họ không nhìn ra đâu là sự thiện, sự ác, không biết lo cho phần rỗi đời đời, nên đến cuối đời, họ như những con cá bị loại ra ngoài, không được cho vào giỏ của ông chủ.

Thật vậy, người khôn ngoan theo ý muốn của Thiên Chúa là người biết xác định rõ : “Khôn thế gian làm quan địa ngục“; “Dại thế gian làm quan Thiên Đàng” và “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì?” (Mt 16, 26).

Người khôn ngoan theo Kinh Thánh chính là người sống hôm nay mà biết lo cho tương lai. Phải chu toàn bổn phận trần thế, nhưng không phải vì thế mà quên thực tại Nước Trời mai hậu. Sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian.

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải khước từ những thứ được coi là thấp hèn. Không quá coi trọng vật chất. Khước từ tính kiêu ngạo, thích ăn trên ngồi trước. Phải sống chan hòa tình nghĩa với nhau.

Phải tin tưởng vào Chúa tuyệt đối, không thể tin nửa vời để rồi dẫn đến tình trạng mê tín dị đoan như tin thầy bùa, thầy ngải, thổ địa…

Hãy mau mắn thi hành Lời Chúa dạy. Trung thành với Giáo Huấn của Giáo Hội.

Sẵn sàng hy sinh tất cả, để chỉ còn “… mối lợi truyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Ðức Kitô (9) và được kết hợp với Người”(Pl 3, 8-9).

Nước trời không thể đến với những người: “Bắt cá hai tay”; vì: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”; và hạnh phúc không thể có đối với người chỉ biết “há miệng chờ sung rụng”.

Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa ban Thánh Thần của Ngài xuống giúp chúng con biết nhận ra đâu là điều tốt, đâu là điều xấu để chúng con lựa chọn. Xin cho chúng con ơn can đảm và trung thành vì Nước Trời. Amen.

[Mục Lục]

Bài 4. Khám phá Kho Báu Tin Mừng
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một kho tàng quý báu đó là Tin Mừng sự sống được rao truyền cho nhân loại suốt hai ngàn năm qua.

Kho tàng ẩn giấu dưới lòng đất

Qua bao đời, người Ả-rập Xê-út sống ngay trên những túi dầu khổng lồ với một trữ lượng lớn lao vượt xa các nơi khác trên thế giới mà không hay biết. Hiện nay, Ả-rập Saudi sở hữu 266,75 tỷ thùng dự trữ dầu, chiếm khoảng 20% trữ lượng dầu mỏ thế giới. Thế mà, suốt cả mấy ngàn năm trước đây, tổ tiên ngàn đời của họ phải sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực vì đất nước của họ gồm phần lớn là sa mạc nóng cháy với một khí hậu khắc nghiệt khác thường.

Mãi cho đến năm 1938, nhờ kỹ thuật tân tiến của phương Tây, họ mới khám phá và khai thác những túi dầu lửa khổng lồ nằm ngay dưới bước chân mình. Nhờ đó, từ thân phận nghèo khổ bần cùng nhất thế giới, họ trở nên một dân tộc giàu có, phồn vinh.

Tiếc thay, biết bao nhiêu thế hệ cha ông họ đã phải sống túng thiếu cùng cực ngay trên trữ lượng “vàng đen” khổng lồ vì không phát hiện được kho tàng ẩn giấu!

Kho tàng ẩn giấu trong cuốn Tin Mừng

Vì lòng yêu thương vô bờ dành cho con cái mình, Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một kho tàng quý báu hàng tỷ lần hơn kho dầu bên Ả-rập; đó là Tin Mừng sự sống được rao truyền cho nhân loại suốt hai ngàn năm qua.

Tin Mừng Chúa Giê-su là sự khôn ngoan của Thiên Chúa được Chúa Giê-su mang từ trời xuống tặng ban cho thế giới.

Tin Mừng Chúa Giê-su là phương dược cứu chữa nhân loại khỏi chia rẽ, hận thù và tự hủy diệt.

Tin Mừng Chúa Giê-su đề ra giải pháp tối ưu để xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ, công bằng, hạnh phúc.

Nhưng tiếc thay, cũng như người Ả-rập trước đây phải sống lây lất trong nghèo đói, bần cùng và lạc hậu vì không biết khám phá và khai thác những túi dầu khổng lồ dưới chân mình, thì nhiều người hiện nay vẫn chưa phát hiện được những giá trị vô cùng cao quý do Tin Mừng mang lại nên phải sống trong tình trạng nghèo tình thương, đói công lý, nhân phẩm bị chà đạp, công bằng xã hội bị tiêu hủy, hố cách biệt giàu nghèo gia tăng, nếp sống đạo đức sa sút nghiêm trọng…

Sở dĩ như thế là vì Tin Mừng là kho báu, nhưng là kho báu ẩn giấu dưới những dòng chữ, là ngọc quý ẩn mình trong những trang sách, nên mặc dù sách Tin Mừng đang ở trong tầm tay mọi người, nhưng nhiều người không phát hiện được giá trị tiềm ẩn bên trong nên không tìm cách khai thác để mang lại lợi ích cho mình.

Hăm hở khai thác kho tàng

Hiện nay, khi thấy dấu hiệu có trữ lượng dầu lửa đáng kể nằm sâu dưới lòng đất hay dưới lòng đại dương, các quốc gia lân cận lập tức xác nhận chủ quyền của mình trên những vùng biển hay vùng đất đó và tìm cách khai thác cho bằng được. Nếu cần, các quốc gia liên hệ có thể huy động cả lực lượng quân đội hùng hậu nhất để cưỡng chiếm những vùng đất đó nhằm thu lợi về cho riêng mình. Nói chung, ai cũng hăm hở khai thác những nguồn lợi nằm trong tầm tay của mình dù phải trả giá rất cao.

Đó cũng là chọn lựa của anh nông dân bất ngờ khám phá ra kho báu hay của một thương gia đi săn lùng ngọc quý trong dụ ngôn Tin Mừng Mát-thêu sau đây (13, 44-46):

“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”

Lạy Chúa Giê-su,

Tin Mừng của Chúa là một kho tàng tuyệt vời đang ẩn mình dưới những dòng chữ, là viên ngọc vô cùng quý báu chìm khuất trong những trang sách, nhưng tiếc thay, vì người đời chẳng hay biết nên họ tỏ ra dửng dưng, hờ hững với Kho Tàng nầy.

Xin cho chúng con biết đánh giá đúng giá trị của Tin Mừng để rồi quyết tâm khám phá cho bằng được và sẵn sàng đầu tư khai thác không quản ngại phí tổn về thời giờ và công sức; vì một khi sở hữu được kho tàng vô giá nầy, một khi làm chủ được viên ngọc quý báu nầy, cuộc đời của mỗi người sẽ được cải thiện, xã hội sẽ có thêm công bằng hạnh phúc và tương lai của nhân loại sẽ bừng sáng.

[Mục Lục]

Bài 5. KHO BÁU CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Kho báu Tin Mừng của thánh Matthêu nói tới ở đây là bảo vật quí báu : Nước Trời hay chính Đức Giêsu. Chính vì Nước Trời là bảo vật vô song, quí giá đến độ con người phải hy tất cả để chiếm hữu lấy.Nước Trời có hai giai đoạn, lúc đầu kẻ lành, người dữ, sự lành, sự dữ, bóng tối ánh sáng lẫn lộn với nhau, nhưng tới ngày tận thế, Chúa sẽ phân chia, phân rẽ ra rõ ràng.

Kết thúc phần loan báo mầu nhiệm Nước Trời bằng ba dụ ngôn “Lúa và cỏ lùng”, “Hạt cải”, “Nắm men”. Ba dụ ngôn này nói lên giá trị tuyệt đối của Nước Trời. Tuần này, toàn bài Tin Mừng có thể chia thành ba khúc : “Hai dụ ngôn bảo vật và viên ngọc quí”, “Dụ ngôn chiếc lưới”, “Lời kết thúc chung cho các dụ ngôn”. Nước Trời thật giá trị, thật cao quí như bảo vật, như ngọc hiếm. Do đó, người tìm ngọc hay ông thương gia đều rất trân trọng, quyết liệt đòi chiếm hữu chúng cho bằng được.Chúng ta có thể hiểu được rằng trước thời Chúa Giêsu hay chính thời Chúa Giêsu đang sống khi có chiến tranh xẩy đến người ta đem chôn giấu các bảo vật, vàng, ngọc xuống đất để tránh kẻ xâm lăng lấy đi. Khi biết được thửa ruộng, thửa vườn nào có của quí, vàng, ngọc chôn giấu, người ta sẵn sàng bán tất cả để mua lấy thửa vườn, thửa ruộng với ước vọng tìm được của quí giá dưới đất.Nước Trời là nơi người Kitô hữu luôn mong chờ đi đến. Người Kitô hữu sẽ hân hoan vui sướng tìm đủ cách để chiếm hữu với đức tin, với sự cố gắng hy sinh ngay cả phải bỏ cả mạng sống… Nước Trời cũng giống như chiếc lưới thả xuống: dụ ngôn này tương tự dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Lúc đầu cá lớn cá bé, cá không ăn được lẫn lộn với nhau nhưng sau đó người ta lựa cá tốt cho vào giỏ, cá xấu quăng đi. Ngày cùng tận của thế giới cũng vậy, Chúa sẽ phân chia kẻ lành, người dữ v.v… Chúa nói trong phần cuối của Tin Mừng hôm nay về những Kinh sư, những người am tường thần học, giỏi về luật lệ, nếu họ biết lợi dụng cái tốt cái xấu trong kho, nghĩa là biết dùng kiến thức, sự khôn ngoan để tìm hiểu Nước Trời, họ sẽ chiếm hữu được nó.

Thật thế, Nước Trời nghĩa là Chúa Giêsu và Lời của Ngài đã đến trong trần gian từ lâu lắm rồi. Con người phải biết trân trọng, chóng vánh đón nhận với lòng hân hoan, dạ đơn thành, với sự hân hoan, vui vẻ đến nỗi nếu cần phải hy sinh tất cả để được Nước Trời. Con người và chúng ta đã có thái độ dứt khoát để luôn chân thành lắng nghe Lời Chúa và đón nhận Chúa chưa? Chúng ta đã để chỗ ưu tiên cho Chúa và Giáo Hội hay chưa hay chúng ta vẫn thờ ơ với Lời Chúa và Nước Thiên Chúa?

Vâng, những người mà Tin Mừng nói tới là những người khôn ngoan đã biết sàng lọc, chọn lựa, đã biết tìm cho mình cái gì là giá trị, là quý hóa nhất cho mình. Họ khôn ngoan vì biết cân nhắc, biết phân định rõ ràng cái gì xấu, cái gì tốt : lúa và cỏ dại, bảo vật, vàng, ngọc, cá tốt, cá xấu v.v… Những người này là những người đã dám từ bỏ, liều mất mạng sống, dám bán hết gia tài sự nghiệp, dám dấn thân vì Chúa, vì Giáo Hội, vì tha nhân để chỉ có một mục đích duy nhất là tìm được Nước Trời.

Xin mượn lời của Philippe Cochinaux, o.p. viết để kết luận bài chia sẻ này : Điều mà Chúa Giêsu và vua Salômôn nhắc nhở chúng ta, ấy là cái kho báu chôn giấu trong ruộng và viên ngọc quí ấy minh họa một lời nói khác của Đức Giêsu, cũng được ghi lại trong Matthêu “kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó”. Kho tàng của chúng ta đang ở đâu ? Là câu hỏi được đưa ra, mời chúng ta tự hỏi.Có nghĩa là Thiên Chúa đang ở đâu, trong cuộc đời chúng ta ? Câu trả lời thì đơn sơ, đơn sơ làm sao : ở trong lòng chúng ta. Mà nói như vậy là thế nào ? Điều quan trọng không phải là những ý tưởng tốt lành của chúng ta, ngay cả những lời tuyên bố của chúng ta cũng không phải. Điều quan trọng là chúng ta dùng thời giờ của mình như thế nào, đem sự quan tâm của mình, những tài năng cá nhân, nội tâm của mình, sử dụng vào những điều gì”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan như vua Salômôn đã xin với Chúa để chúng con biết tìm kiếm Nước Trời và đừng quá bám víu vào những sự chóng qua ở đời này. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. ÔBAC đã dành cho Nước Trời bao nhiêu phần trăm trong ngày ?
2. ÔBAC có coi Nước Trời là ưu tiên số một trong đời sống của mình chưa ?
3. Vua Salômôn đã xin gì với Thiên Chúa ?
4. Thế nào là khôn ngoan ?
5. ÔBAC đã dám liều thân tìm kiếm Nước Trời hay còn gì cản trở ÔBAC trong việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa
 ?

[Mục Lục]

Bài 6. KHÔN NGOAN
P. Trần Đình Phan Tiến

Chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta thấy mầu nhiệm Nước Trời là một giá trị không thể so sánh được bởi bất cứ giá trị nào của trần thế. Đó là sự khôn ngoan đích thực.

Khởi đi từ bài đọc I (1V 3,5. 7-12), Vua Salomon đã xin cùng Thiên Chúa ban cho người ơn khôn ngoan. Đến độ sự khôn ngoan của Vua Salomon vượt trên tất cả sự khôn ngoan của trần thế, đến độ trước ông và sau ông cũng không ai khôn ngoan bằng ông. Vì sự khôn ngoan của Vua Salomon chính là ông cầu xin Thiên Chúa ban cho ông sự “KHÔN NGOAN”.

Vậy khôn ngoan là gì? Chúng ta thấy trong Thánh Kinh thường nhắc đến khôn ngoan. Khôn ngoan ví như người trinh nữ dịu hiền chung thủy với lang quân của mình. Và có cả một sách Khôn Ngoan. Rồi chúng ta nhớ đến câu truyện Mười Cô trinh Nữ đi đón chàng rễ, nhưng chỉ có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại.

Dẫn vào Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu cho chúng ta ba dụ ngôn tiếp theo là :

Kho báu (Mt 13, 44)

Ngọc quý (Mt 13, 45-46 )

Chiếc lưới cá (Mt 13, 47-50)

Trong số bảy Dụ Ngôn theo Tin Mừng thánh Mat-thêu, phần IV, MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI. Trong phần 2 của Mat-thêu, phần Bài Giảng bằng Dụ Ngôn, có bảy Dụ Ngôn, chúng ta đã được đọc bốn Dụ Ngôn, còn lại ba Dụ Ngôn hôm nay.

Theo đó, chúng ta biết , Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để nói về Nước Trời. Vậy, chúng ta cũng có thể hiểu, Nước Trời chính là Lời Chúa, Nước Trời chính là Giáo Hội tại thế trên hành trình tiến về Nhà Cha, Nước Trời cũng chính là Chúa Giêsu, bởi vì Giáo Hội được hiểu như là mình mầu nhiệm Chúa Giêsu. Từ đó, chúng ta hiểu được những dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã nói về Nước Trời, dù những chủ đề của mỗi dụ ngôn được nói về một vấn đề, như chủ đề dụ ngôn Chúa nhật tuần trước được nói về sự khoan dung và kiên nhẫn của Thiên Chúa, nhưng tựu trung đều chỉ về Nước Trời.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết về chủ đề : “KHÔN NGOAN”. Vâng, khôn ngoan rõ ràng là một điều gì đó bởi Thiên Chúa, khôn ngoan rất cần thiết cho chúng ta. Vì khôn ngoan tạo nên giá trị cuộc sống, khôn ngoan bảo vệ và nuôi dưỡng sự sống. Vì vậy, sự khôn ngoan rất cần thiết cho chúng ta, vì sự khôn ngoan bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì sự khôn ngoan từ Thiên Chúa là khôn ngoan thật, vì Thiên Chúa là chân lý, khác với sự khôn ngoan giả trá của thế gian. Vì thế gian cũng có sự khôn ngoan, nhưng là sự khôn ngoan quỷ quyệt, giả trá, tức là sự khôn ngoan của quỷ. Đến đây, chúng ta nhớ lại có lần Chúa Giêsu nói : “Con cái thế gian thì quỷ quyệt (khôn ngoan) hơn con cái sự sáng” (Lc 16 , 8). Có nghĩa là, sự khôn ngoan của ma quỷ là sự dự, đưa con người đến chổ bị diệt vong. Nhưng sự khôn ngoan Nước Trời, thì thế gian cho là khờ dại. Theo đó, sự tính toán của thế gian là để sinh lợi cho của cải thế gian. Nhưng thế gian lại không trường tồn, vì vậy, thế gian trở nên khờ dại. Ngược lại Nước Trời hằng hữu, vì thế, muốn chiếm lấy Nước Trời thì cũng phải biết khôn ngoan. Hãy nói cách khác hãy học lấy cách khôn ngoan của thế gian cho việc mua lấy Nước Trời, mặc nhiên bằng sự khôn ngoan, chứ không phải bằng bạo lực.

Vậy, khôn ngoan từ Thiên Chúa là điều cần thiết, khôn ngoan không ồn ào, khôn ngoan không bất công, khôn ngoan không chèn ép. Nghĩa là “không dập tắt tim đèn còn cháy, không đạp nát bụi lau”. Khôn ngoan của sự sáng chính là “Lòng Thương Xót” của Thiên Chúa.

Trở lại Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói : “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền đem chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy” (c 44) (Dụ ngôn kho báu).

Theo đó, chúng ta thấy, Dụ Ngôn Kho Báu là một cái điều gì đó thật may mắn, thật bất ngờ. Như trúng số vậy, có nghĩa là do trò chơi “Trời cho” Điều nầy có thể được hiểu theo lời của thánh Phao-lô tại bài đọc II (Rm 8, 28 – 30). Có nghĩa là “Ý định cứu độ của Thiên Chúa”, chính là một kho báu dành cho những ai được kêu mời. Như vậy, thái độ của người Kitô hữu phải biết trân trọng đón nhận ơn cứu độ, thì mới xứng đáng với những điều họ được Thiên Chúa kêu mời. Nếu thật sự, nhân thế gặp được một kho báu trong thửa ruộng của mình, thì mình có hết sức vui mừng như vậy không? Tâm tình của người đón nhận ơn cứu độ có vui mừng như thế không? Giá trị siêu nhiên bao giờ cũng lớn hơn bội phần giá trị vật chất, nhưng chúng ta có biết khám phá ra giá trị siêu nhiên không?

Theo đó, Dụ ngôn thứ hai: Ngọc quý, Chúa Giêsu nói tiếp : “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tim được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (c 45-46).

Cũng như tâm tình trên, chúng ta thấy, Chúa Giêsu dùng những dụ ngôn thật dễ hiểu, một sự so sánh rất gần gũi. Nhưng đối với người thực thi, thì đòi hỏi phải có một thái độ dứt khoát, một sự đánh đổi, chọn lựa điều mà mình nhận ra là quý giá đó. Chúng ta thấy, người thương gia buôn ngọc là người sành sỏi về ngọc, đối với ông ta có một sự lão luyện trong nghề nghiệp, biết nhận ra ngọc tốt, xấu, có nhiều kinh nghiệm trong công việc của mình. Và như vậy, khi gặp được viên ngọc đẹp, tức thì, ông ta âm thần về bán hết tài sản để mua viên ngọc ấy. Đó là sự chọn lựa đứt khoát, muốn vậy, người được mời gọi trở nên Kitô hữu cũng phải nhận ra giá trị Nước Trời giống như vậy. Điều ấy có nghĩa là, chúng ta phải biết nhận ra giá trị siêu nhiên quý giá như thế nào? Giữa giá trị thực tại và giá trị vĩnh hằng, giữa giá trị hữu hình và giá trị siêu nhiên quan trọng như thế nào?

Dụ ngôn thứ ba : Chiếc lưới cá

“Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì nhốt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó chúng phải khóc lóc nghiến răng” (c 47 – 50).

Chúng ta thấy, dụ ngôn chiếc lưới cá và dụ ngôn cỏ lùng gần giống nhau. Như vậy, về ý nghĩa thì dụ ngôn chiếc lưới đã rõ ràng. Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta về người tốt và kẻ xấu, người lành và kẻ dữ, kèm theo số phận của từng người.

Như vậy, sự khôn ngoan cho chúng ta biết, chúng ta phải theo sự lành và lánh sự dữ. Vì Nước Trời là lúa tốt chứ không phải cỏ lùng, là cá tốt chứ không phải cá xấu, là người công chính chứ không phải kẻ bất lương. Nước Trời rạch ròi như ánh sáng không pha lẫn bóng tối. Vì có lần Chúa Giêsu nói : “Nếu các người không ăn ở công chính hơn những người biệt phái và pharisiêu thì không được vào Nước Trời đâu.” (Mt 5, 20). Và : “Nếu các ngươi không nên như trẻ nhỏ, thì cũng sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3).

Dụ ngôn Kho Báu và Ngọc Qúy cho chúng ta ý thức của sự khôn ngoan. Vì khôn ngoan là điều kiện duy nhất để đạt được Nước Trời. Vì giá trị siêu nhiên hơn hẳn giá trị vật chất. Muốn vậy, cần có ơn khôn ngoan, mới có đủ sức mạnh và can đảm để chọn lựa và tiến đến Nước Trời.

Dụ ngôn chiếc lưới cá cho chúng ta thấy sự khoan dung của Thiên Chúa có kỳ hạn, có mở đầu , ắt có kết thúc. Đồng thời mặc khải cho biết sự công thẳng của Thiên Chúa, quyền năng, công thẳng, và uy quyền của là Đấng Tạo Thành.

Như vậy, Nước Trời chính nơi kêu gọi con người nên thánh, vì vậy được gọi là Hội Thánh, Hội Thánh được xây dựng bởi Lời Chúa. Theo đó, chính Chúa Giêsu là Thân Thể, Nhiệm thể của Hội Thánh, và nếu không có Hội Thánh trần thế, thì cũng không có Hội Thánh mai sau. Vì Chính Chúa Giêsu chết và sống lại cho Hội Thánh mà Người thiết lập trên trần thế. ( xin đừng nhầm lẫn Hội Thánh chỉ có ở tại trần thế, như vậy là lạc giáo mất).Từ đó, sự khôn ngoan chính là điều tiên quyết để nhận ra và tiến bước theo Nước Trời.

Kết luận : Nước Trời là chính Giáo Hội, đồng thời là Thân Mình mầu nhiệm Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha xức dầu tấn phong làm Đấng Cứu Thế, bằng cuộc tử nạn và phục sinh. Vì vậy, Nước Trời không phải là nơi hỗn độn, mà là nơi được chọn lựa kỹ càng. Vì thế, muốn vào Nước Trời, chúng ta phải cầu xin ơn khôn ngoan để nhận biết chân lý, hầu kiên tâm vững chí bước theo.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mặc khải Nước Trời bằng những dụ ngôn để cho những ai nhận biết, thì biết sẵn sàng khôn ngoan tìm lấy, hầu đón nhận ơn cứu độ từ chính Chúa, là nguồn khôn ngoan. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 7. NGƯỜI KHÔN NGOAN THÌ BIẾT CHỌN LỰA ĐÚNG
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Thỉnh thoảng các phương tiện thông tin đại chúng cho chúng ta thấy cảnh tượng người lớn trẻ con đổ xô đi tìm vàng ở một vùng núi nào đó. Những người ấy chấp nhận mọi gian khổ và hiểm nguy để có được chút kim loại cao giá trong xã hội hiện nay. Cảnh tượng ấy gợi lên cho chúng ta cảnh tìm kho báu hay viên ngọc quí của bài Phúc âm hôm nay.

Dụ ngôn về kho báu và viên ngọc quý nêu cao giá trị của Nước Trời và sự khôn ngoan cần thiết để chiếm/mua cho được Nước ấy. Còn dụ ngôn về chiếc lưới thả xuống biển bắt cá cho chúng ta biết muốn vào Nước Trời là phải chịu sàng lọc, phải là những người tốt mới được chọn cho vào. Qua hai dụ ngôn trên Chúa Giê-su gợi ý gì cho chúng ta?

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (1 V 3,5.7-12): Ngươi đã xin cho được tài phân biệt để xét xử.

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,28-30): Thiên Chúa đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 13,44-52): Người ấy bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

* Là Đấng đã ban cho vua Sa-lô-môn sự khôn ngoan mà vua đã xin. Vua Sa-lô-môn đã là người khôn ngoan khác thường khi cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan chứ không cầu xin Thiên Chúa ban cho mình giầu sang và quyền lực là những thứ mà người ta thường xin. Và Thiên Chúa đã ban cho vua Sa-lô-môn một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn đến nỗi trước ông, chẳng một ai sánh bằng, và sau ông, cũng chẳng có ai bì kịp!

* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã dùng dụ ngôn mà giảng dậy cho dân chúng hiểu về giá trị cao quý của Nước Trời và lưu ý họ rằng nếu họ muốn được chọn vào Nước Trời thì phải là những con nguời lương thiện, hoàn hảo (cá tốt).

* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa ban cho vua Sa-lô-môn một tâm hồn khôn ngoan; Người cũng hiện diện và cùng hành động với Chúa Giê-su khi Người giảng dậy về Nuớc Trời cho dân chúng bằng các dụ ngôn đơn sơ mà sâu sắc. Chúa Thánh Thần cũng là Đấng hiện diện và hành động trong tâm hồn người Ki-tô hữu để mở lòng, mở trí chúng ta đón nhận mạc khải của Chúa Giê-su mà quyết chọn Nước Trời bằng mọi giá.

3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):

Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai điều:

* Một là Nước Trời [hay Nước Chúa hay Vương Quốc hay Triều Đại của Thiên Chúa] là Thế Giới Yêu Thương Hạnh Phúc mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người khi con người mở lòng đón nhận mạc khải Tình Yêu của Thiên Chúa và sống trong đó. Vì thế Nước Trời là một THỰC TẠI CÓ GIÁ TRỊ VÔ CÙNG LỚN LAO CAO CẢ và TUYỆT VỜI, đáng chúng ta hy sinh tất cả mọi sự mà chiếm cho được Nước ấy.

* Hai là muốn vào Nước Trời mọi người phải qua một cuộc sàng lọc, một cuộc tuyển lựa như người ngư phủ chọn lấy cá tốt và loại bỏ cá xấu sau khi rũ cá ra khỏi lưới. Chỉ những ai sống lương thiện, nhiệt thành, đạo đức, bác ái, phục vụ…(cá tốt) mới được chọn vào Nước Thiên Chúa. Còn những kẻ sống bất lương và bất nhân trong đời thường, thờ ơ và trễ nải trong đời sống tâm linh (cá xấu) thì chắc chắn sẽ bị loại và bị ném vào lò lửa đời đời.

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục! Đặc biệt là sống với Chúa Thánh Thần là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và với Chúa Giê-su là Thầy Dậy về Nước Trời cho những ai khát khao sự tốt lành, thánh thiện .

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay chúng ta phải thực hiện hai việc sau đây:

* Một là phải cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa Cha vì Chúa Cha đã ban Đức Khôn Ngoan là Thánh Thần để Người giúp chúng ta thấu hiểu ý nghĩa sâu sắc và cụ thể của những dụ ngôn mà Chúa Giê-su đã dùng để trình bày về Nước Trời.

* Hai là phải tập sống hy sinh từ bỏ những điều phù phiếm ít giá trị để tìm cho ra và chiếm cho được kho báu quý giá là Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.”Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, trong đó có rất nhiều người chỉ biết chạy theo tiền bạc, chức quyền và lạc thú mà không biết tới một kho báu vô cùng quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại là Nước Trời.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con

5.2 “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và các giáo dân lãnh đạo -, để mọi Ki-tô hữu biết sống theo tiếng nói khôn ngoan của Thánh Thần trong khi phục vụ Dân Chúa.

5.3 “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các người trong giáo xứ/cộng đồng chúng ta để mọi người dám hy sinh từ bỏ những gì là phù phiếm chóng qua để mua cho được Kho Báu là Nước Trời.

5.4 “Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp.” Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho những nhà lãnh đạo các quốc gia, nhất là cho các nhà lãnh đạo Việt Nam, để họ được ơn khôn ngoan mà đưa đất nước của họ đến chỗ phát triển hài hòa và thịnh vượng đích thực.

[Mục Lục]

Bài 8. LƯỚI CÁ HAY LƯỚI NGƯỜI?
JM. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XVII/TN-A – Mt 13, 44-52) tiếp tục trình thuật những dụ ngôn Đức Giê-su Ki-tô dạy các môn đệ về Nước Trời. Đó là 2 dụ ngôn: “Kho báu và ngọc quý” và “Chiếc lưới”. Suy niệm dụ ngôn “Chiếc lưới” khiến người ta không thể không nghĩ tới lần Đức Giê-su thu nhận 4 môn đệ đầu tiên: “Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5, 4-8)

Những người đánh cá (trong đó có Thánh Phê-rô) bằng những dụng cụ chài lưới thường dùng và những kinh nghiệm từng trải, đã “… vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”, nhưng khi “… vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”, cũng vẫn những dụng cụ và cách thức ấy, thì kết quả đã vượt quá sức tưởng tượng (“họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm”). Sở dĩ gọi đó là một biến cố vì trong cùng một sự kiện, cũng một cách thức thực hiện, mà kết quả khác hẳn nhau, nhưng nhất là vì sự kiện đó xảy ra đã làm thay đổi hẳn cách nhìn (quan điểm) của thánh Phê-rô và đám đông về Đức Giê-su Ki-tô, đến nỗi mà thánh nhân phải “sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Và còn hơn thế nữa, vì qua biến cố này, Đức Giê-su còn muốn biến những kẻ chài lưới bình thường ấy thành những người không còn phải lưới cá nữa mà là “lưới người” như Thánh Mát-thêu trình thuật: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 19).

Lưới người? Đức Ki-tô đã dùng hình ảnh sống động “lưới cá” trong cuộc mưu sinh hàng ngày của các môn đệ, để nói về một công việc nghe có vẻ trừu tượng: “lưới người” (thu phục nhân tâm). Người muốn các môn đệ hiểu được Người muốn nói về chính sứ vụ của Người – sứ vụ mà Người muốn trao cho các môn đệ thực thi: “rao giảng Tin Mừng, mở mang Nước Chúa”. Công việc nghe có vẻ rất trừu tượng ấy lại được thực thi bằng những hành vi cụ thể: lời nói, việc làm, thậm chí bằng cả cuộc sống. Các môn đệ đã quá rõ về nghề chài lưới không chỉ cần đến các công cụ (ghe thuyền, chài lưới) cho thật tốt, mà còn cần – rất cần – phải biết chọn đúng thời điểm theo thời vụ ở mỗi địa điểm (vd: sáng thì nên thả lưới chỗ nào, trưa, chiều, tối thì nên thả lưới chỗ nào có nhiều cá; rồi còn phải biết tính vào mùa nào trong năm, vào thời điểm nào trong tháng … thì nên thả lưới ở đâu). Ngoài ra, còn cần đến những phương pháp, kỹ năng chài lưới sao cho có hiệu quả tối ưu nữa. Qua một phép lạ và chỉ trong một câu ngắn gọn, Đức Ki-tô đã làm cho các môn đệ hiểu và tin vào Người Thầy của mình sẽ giúp mình trở nên một người tinh thông và đủ năng lực thực hiện một hành vi trừu tượng “lưới người”. Như vậy thì sự kiện ấy chẳng phải là một biến cố đó sao?

Trong cuộc sống của con người, thường hay có những biến cố xảy ra. Xét theo từ nguyên thì biến cố chỉ có nghĩa là một tai nạn xảy ra làm thay đổi hình dạng (biến: mất đi, không còn hình dạng nữa; cố: sự vịêc). Như vậy, biến cố mang ý nghĩa thay đổi sắc thái + hình dạng + tố chất của sự kiện, sự vật, bao hàm cả tích cực lẫn tiêu cực. Tuỳ theo mức độ lớn nhỏ, những biến cố ấy có thể chỉ là một lối rẽ, một bước ngoặt làm thay đổi cuộc sống thường nhật. Lớn rộng hơn, sâu xa hơn, có thể làm thay đổi cả nếp suy nghĩ (tư tưởng), cách nhìn (quan điểm) về vũ trụ và cuộc sống của con người (“vũ trụ quan”, “nhân sinh quan”). Về mặt xã hội, có những biến cố làm nảy sinh những trào lưu hoặc làm thay đổi cả hệ tư tưởng, thậm chí có những biến cố làm đảo lộn cả trật tự xã hội. Về mặt tôn giáo cũng vậy, chỉ nói riêng về Ki-tô Giáo, từ khi Giáo Hội được thành lập cho tới ngày nay cũng có không biết bao nhiêu biến cố đã xảy ra: song song với những cải cách, canh tân từ những Công Đồng Chung làm cho Giáo Hội phát triển, đổi mới, thích nghi với thời đại, thì cũng có những cuộc ly giáo, đại ly giáo, những cuộc thập tự chinh… làm hoen ố tính chất hiệp thông, bác ái của Giáo Hội.

Với từng cá thể con người cũng không ra ngoài quy luật chung, đều có những biến cố – không nhiều thì ít – tác động đến đời sống (cả tinh thần lẫn vật chất). Khi nói về Thánh Phao-lô, vị Tông đồ kiệt xuất của Đức Ki-tô, chắc chắn ai cũng nghĩ rằng phải có một biến cố trọng đại xảy ra mới khiến ngài từ một kẻ chuyên đi lùng giết những người “theo Giê-su”, lại trở nên một người “theo Giê-su đến cùng”, thậm chí còn sẵn sàng chết cho mục đích mình theo đuổi. Nhưng không lẽ chỉ có một thánh Phao-lô là được biến cố Damas thức tỉnh và hoán cải con người của mình? Không, còn và còn rất nhiều, kể cả đến thời đại hiện nay, cũng vẫn có những biến cố xảy đến để thức tỉnh, đổi mới con người, canh tân Giáo Hội. Chỉ có điều, con người có nhận ra được biến cố đó hay không và có thực lòng hoán cải tâm hồn hay không mà thôi.

Trở lại biến cố “lưới người như lưới cá” xảy ra với 4 môn đệ đầu tiên của Đức Ki-tô (Lc 5, 1-11). Người bộc lộ cá tính rõ nét nhất trong 4 vị Tông đồ tiên khởi chính là “ông phổi bò” Si-mon Phê-rô. Gọi ngài là ông phổi bò vì ngài là người có gì, nghĩ gì, là nói thẳng ra, không quanh co, lắt léo. Ngoài biệt hiệu “phổi bò”, dân gian Việt Nam còn có những biệt hiệu khác dành cho những người thẳng thắn bộc trực, nghe rất ấn tượng: thẳng ruột ngựa, thẳng mực tàu. Cái cá tính bộc trực của thánh Phê-rô đã cho biết thánh nhân gặp nhiều biến cố khi đi theo Thầy Giê-su, tích cực có, tiêu cực có. Về mặt tích cực, thì ngay biến cố đầu tiên này đã làm cho thánh Phê-rô thức tỉnh, nhận ra Người Thầy của mình chính là Chúa – là Thiên Chúa – của mình, khiến ngài đã đổi cả cách xưng hô và thể hiện một động tác quy phục tột đỉnh (từ “Nhưng, vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”, đến “sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” – ibid).

Về mặt tiêu cực thì có thể kể 2 biến cố nổi bật: đó là biến cố “Đức Ki-tô đi trên mặt biển” và biến cố “Phê-rô chối Chúa”. Nơi biến cố “Đức Ki-tô đi trên mặt biển”, xét về mặt chủ quan của chính chủ thể Phê-rô, thì thấy rõ ràng ngài đã thể hiện sự tiêu cực: vẫn chưa thật sự tin rằng Thầy mình là Thiên Chúa (thánh nhân thấy Người Thầy bằng xương bằng thịt của minh đi trên mặt biển lại nghĩ là ma, vì cho chỉ có ma mới đi được như thế). Đến như biến cố “chối Chúa 3 lần trong một đêm” thì rõ ràng đức tin của Phê-rô vẫn bị chao đảo (sợ cả đứa tớ gái nhà Cai-pha). Tuy nhiên, nếu xét về mặt khách quan (tác động từ bên ngoài vào chủ thể) thì chính những biến cố ấy lại mang tính tích cực rõ rệt, bởi sau biến cố này, thì con người thánh Phê-rô đã thay đổi hẳn. Sau cái hành động tiêu cực ấy, thì “Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. Ông Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Mt 26, 74-75). Và kể từ biến cố ấy, đặc biệt nhất là ở biến cố “Ngày lễ Ngũ Tuần” (Cv 2, 1-13) sau Phục Sinh, được ơn Thánh Thần soi sáng và tác động mãnh liệt, thánh Phê-rô đã trở nên một Tông đồ trung kiên tuyệt đối, dám đem cả sinh mạng của mình ra để làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô.

Đến ngày nay, thì không chỉ có thánh Phê-rô, thánh Phao-lô và các vị Tông đồ tiên khởi của Giáo Hội sơ khai, mà là toàn thể Giáo Hội, tất cả mọi Ki-tô hữu đều được Đức Ki-tô trao phó sứ vụ “lưới người”, tức là “… từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” (Lc 5, 10). Thu phục người ta, thu phục nhân tâm thì đúng là một công việc trừu tượng (“lưới người”), nhưng chính công việc trừu tượng ấy lại được thực thi, thể hiện bằng lời nói, hành động, việc làm cụ thể trong cuộc sống hàng ngày (“như lưới cá”). Tất nhiên, với một con người phàm phu tục tử có đầy đủ thất tình lục dục, thì không thể “tự lực cánh sinh, tự lực hành động” được, mà phải cậy nhờ vào những hồng ân, những đặc sủng Thiên Chúa ban tặng thông qua những biến cố trong cuộc đời.

Những thử thách trăm chiều mà con người phải đối mặt có thể sẽ làm cho con người tiêu cực càng trở nên tiêu cực hơn, nhưng với những con người sẵn sàng ngẩng cao đầu đối diện với nó – bằng một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, Đấng Quan phòng, Người đã gửi những thử thách ấy để “thử lửa” họ – thì chắc chắn họ sẽ coi những lời dạy của thánh Gia-cô-bê Tông đồ đúng là khuôn vàng thước ngọc để sống, để củng cố đức tin: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì”.(Gc 1, 2-4).

Trước mỗi biến cố thì lời khuyên luôn luôn và mãi mãi vẫn là: “Đừng ngồi nguyền rủa bóng tối, mà hãy thắp lên một ngọn đèn.” Cũng đừng ngồi há miệng chờ sung rụng, mà hãy trèo lên cây hoặc dùng những phương tiện (câu liêm, vợt…) để hái cho được những quả sung chín mọng. Vả lại, càng không nên ngồi chờ những biến cố như một phép lạ đến biến đổi con người của mình, mà hãy thức tỉnh, hãy tìm kiếm, và khi được gặp thì hãy hành động. Vâng, nếu đã tin có Đấng Toàn Năng Chí Công Vô Tư hằng luôn quan tâm đến bạn, hằng thương xót bạn, thì xin bạn hãy hành động. Ấy cũng bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26). Hãy sẵn sàng đón nhận sứ vụ “lưới người”, với một tư thế chuẩn bị kỹ càng ghe thuyền, chài lưới, trau giồi kỹ năng săn bắt, cùng với sự tỉnh thức học tập rút đúc kinh nghiệm, và cuối cùng, HÃY HÀNH ĐỘNG (ra khơi, thả lưới)! Vâng, chính những “dân chài”, những “người thợ làm vườn nho” chỉ có thể gặt hái được kết quả mỹ mãn, khi biết “công dục thiện kỳ sự, tất tiên lợi kỳ khí” (người thợ muốn hoàn thành tốt sự việc, trước hết phải biết trau giồi khí cụ cho thật tốt – Khổng Tử – “Luận Ngữ”).

Một hệ luận tất yếu dành cho những kẻ được ơn gọi đi “lưới người như lưới cá”, đó là: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Bài đọc 2 – Rm 8, 30). Như vậy thì còn chần chờ gì nữa mà không tin vào chính mình (tự tin) và xăn tay áo lên (hành động) mà thưa với Thầy Chí Thánh: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Xin được chia sẻ cùng những người bạn đồng hành. Amen.

[Mục Lục]

Bài 9. KHO BÁU NƯỚC TRỜI LÀ ĐỨC KITÔ
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Xuyên suốt trong các Chúa Nhật vừa qua, hình ảnh nổi bật trong các bài Tin mừng là ruộng đất. Từ hạt lúa gieo trên ruộng đồng đến lúa tốt và cỏ lùng chen vai mọc lên trên ruộng đất và Chúa nhật hôm nay là kho báu chôn giấu trong ruộng lúa.

Palestine là miền đất có nhiều tranh chấp và nguy hiểm rình rập: chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói khát, cướp bóc, nô lệ… hay bất cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất tài sản và cuộc sống của người dân. Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ trở lại, nhưng có nhiều người ra đi vĩnh viễn. Do đó, người ta thường tìm thấy kho tàng.

Dụ ngôn ‘Kho báu chôn dấu trong thửa ruộng” là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.

Ngày hôm ấy, Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã qụy và gãy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên.

Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ :

- Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.

Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền hầu mua thửa ruộng đó, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.

Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định : kể từ ngày làm chủ mảnh đất, anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.

Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời.

Ý nghĩa của dụ ngôn chính là thái độ của người nông dân: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có đủ tiền mua thửa ruộng ấy. Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả vì kho tàng quí giá ấy.

Dụ ngôn “Viên ngọc quý”: thương gia khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.

Dụ ngôn “Kho báu chôn trong ruộng” và “Viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và ‘Viên ngọc quý” ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô. Có Ngài, chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô, là đạt đến Nước Trời.

1Nước Trời có một giá trị tối thượng

Chúa Giêsu nói về kho báu và viên ngọc mà người cày ruộng và thương gia dám bán tất cả những gì họ có để mua lấy. Bởi đó là giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời họ. Đó là điều làm cho họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự trên trần gian để có nó (GLCG # 546). Tính chất cao quý ấy được các bài đọc Sách Thánh hôm nay làm nổi bật bằng cách đưa ra những so sánh ví von. Cao quý như sự khôn ngoan được vua Salômon coi trọng hơn phúc lộc thọ của ngai vàng (bài đọc 1). Salômon kế vị Vua cha là Đavít. Salômon nhận rõ mình “trẻ người non dạ” và những hạn chế của bản thân trước trọng trách làm vua. Salômon được Thiên Chúa yêu thương, ân ban cho ông được quyền xin ơn gì ông cần. Salômon không xin giàu có, không xin vinh quang và cũng không xin trường thọ. Salômon xin ơn khôn ngoan để hướng dẫn dân được tuyển chọn đúng theo đường lối của Chúa. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa và ông được nhậm lời. Salômon trở nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới Israel. Trước ông không ai như ông và sau ông không ai bằng ông. Cao quý như lề luật được Dân Chúa coi trọng tựa Nguồn Sáng dẫn lối (bài đọc 2). Cao quý như “Kho báu chôn trong ruộng” như “Viên ngọc quý”. Nước Trời là một ân ban cao quý Thiên Chúa dành cho mọi kẻ kiếm tìm.

3. Chọn lựa và quyết định

Sau khi đã nhận ra kho báu, người cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định. Là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: ‘Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoại vẫn tìm kiếm…Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6,31-33).

Sách Giáo lý Công giáo cũng khuyên dạy: ‘Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi” (GLCG # 546).

Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, một khi đã khám phá ra, phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu chính là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho báu ; vị thương gia bán tất cả tài sản để mua cho bằng được viên ngọc quý là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.

4. Tìm được Nước Trời là niềm vui cuộc đời

Người nông dân, vị thương gia đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống là thái độ hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm vui này mới làm cho con người có khả năng dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có được một khi thờ ơ không dám lên đường tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm kiếm của cải trần thế, thú vui xác thịt thì sẽ không bao giờ khám phá được niềm vui Nước Trời, niềm vui trong Chúa.

Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ tất cả để đạt cho bằng được là niềm vui của đời Kitô hữu chính là thái độ chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống, nơi Chúa mới tìm kiếm được nguồn mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc.

Thái độ “vui mừng bán tất cả”, không phải ai cũng dễ dàng có được. Câu chuyện Phúc âm “Người thanh niên giàu có” là một ví dụ. Anh ta đã sụ mặt xuống và quay đi vì anh ta có nhiều của cải khi nghe Chúa Giêsu bảo : “Anh hãy về bán hết của cải, phân chia cho người nghèo, rồi hãy đến theo Ta…”. Làm sao bán hết Chúa ơi khi con đã một đời vất vả tảo tần để có được cơ nghiệp như ngày hôm nay ? Làm sao vui mừng để từ chối một mối tình vụng trộm mà con mới cất công xây nên ? Làm sao con từ bỏ một thói đã đem lại cho con nhiều thích thú và thỏa mãn sự biếng lười ? Làm sao con có thể bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền chỉ để giữ luật Ngày Chúa Nhật ? Làm sao con có thể bố thí nhiều đến thế, cho dù con sẵn sàng bỏ ra gấp trăm ngàn lần để nhậu nhẹt mua vui? Làm sao con có thể hạ mình xuống trong khi con là đấng bậc vị vọng? Làm sao con có thể bỏ học thêm để dành cho việc học giáo lý?…Và cuối cùng chắc con cũng sẽ sụ mặt xuống quay đi, vì con có quá nhiều tham vọng và của cải…

Cuộc đời vẫn luôn có những “chàng thu thuế Lêvi” sẵn sàng bỏ cả địa vị hái ra tiền để đi theo Đấng không có viên đá gối đầu. Vẫn còn những Giakêu, sẵn sàng chia nửa gia tài cho kẻ nghèo và đền gấp bốn những ai bị thiệt hại. Vẫn còn những Phanxicô Xavie, Phanxicô Asissi, vẫn còn những Têrêxa Calcutta…bỏ cả cuộc đời để ra đi rao giảng tin mừng và phục vụ người nghèo; vẫn còn những Maximilien Kolbe, Anrê Phú Yên dám bỏ cả mạng sống để đáp đền mạng sống…

Điều quan nhất là phải biết khám phá, trong bản thân mình, ai cũng có một kho báu quí giá. Kho báu ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, được dựng nên “giống Thiên Chúa” (St 1,26.27; 9,6), là “con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá con người hết sức cao quí. Đó là niềm vui và là hạnh phúc. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.

Trong Đức Kitô, sự khôn ngoan Thiên Chúa đã được tỏ bày qua sự yếu đuối nhân loại. Ai chân thành với Đức Kitô sẽ gặp thấy Ngài chính là kho báu. Ai trung thành làm theo lời Đức Kitô sẽ sở hữu trọn vẹn kho báu ấy. Ai nhiệt thành gắn bó với Đức Kitô sẽ được chia sẽ cùng Ngài kho báu hạnh phúc Thiên đàng.

[Mục Lục]

Bài 10. Phải dấn thân để chiếm đoạt Nước Trời
Đỗ Bá Công

Cha Mark Link, thuộc Dòng Tên, nổi tiếng ngày nay vì những bài giảng thức thời và thiết thực, có nói: “Nếu Đức Giêsu sống giữa chúng ta ngày nay, trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài sẽ nói rất khác: thay vì chuyện người buôn ngọc đã hy sinh tất cả, để đi mua một hạt ngọc quý, hay là chuyện một nông dân đã bán tất cả để mua thửa đất trong đó có chôn giấu một kho tàng, thì Chúa sẽ nêu lên một lực sĩ chạy marathon, kiêng khem tất cả, để đoạt chiếc huy chương vàng.”

Vì sao Ngài nói thế? Có gì liên hệ giữa người buôn ngọc, người đi tìm kho báu, với người chạy marathon? Ba người ấy có gì giống nhau? Thưa chỉ vì một điều họ giống nhau: là họ cùng dấn thân vào một giấc mơ. Cả ba đều muốn hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ đặt trước mắt họ.

Trong trường hợp người buôn ngọc là làm sao thủ đắc một viên ngọc thượng hặng. Trong trường hợp người đi tìm kho báu thì làm sao gặp được một kho tàng hiếm lạ. Trong trường hợp người đi tìm chạy marathon là làm sao được huy chương vàng. Sự kiện ấy dẫn chúng ta vào một điểm cốt yếu mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm ấy là: công dân Nước Trời phải dấn thân toàn diện con người. Chúng ta không thể theo đuổi mục đích ấy cách hờ hững. Nhưng chúng ta phải dốc toàn lực trăm phần trăm. Chúng ta phải coi đó như là một ưu tiên trên hết của đời sống chúng ta.

Làm người Kitô hữu giống như là làm người đi buôn ngọc.

Làm người Kitô hữu như là một người đi tìm kho báu.

Làm người Kitô hữu là như một tay chạy marathon, phải cần có một cuộc dấn thân và tận hiến. Tuy nhiên vẫn có một sự khác biệt lớn lao giữa người Kitô hữu và ba hạng người kia. Thánh Phaolô nhắc lại điều ấy trong Thư thứ nhất gởi Tín hữu Corinthô: “Phàm là tay đua, thì phải kiêng khem đủ điều: Vậy mà họ, là để đoạt một triều thiên hư nát. Còn ta, ta trông một triều thiên bất hoại” (1 Cor 9,25).

Sự khác biệt là ở đó. Cái giá vô song của người buôn ngọc, kho tàng hiếm lạ của người nông, chiếc huy chương vàng cao quý của lực sĩ marathon đều phải hư nát. Khi người buôn chết, viên ngọc quý kia không còn giá trị gì cho người ấy. Khi người nông chết, kho tàng trở nên vô dụng chỉ như một cái hộp mà ông ta đã tìm hồi ấy. Khi người lực sĩ marathon chết, huy chương vàng kia chỉ là một lưu niệm cho gia đình hay bạn bè mà thôi. Nhưng khi người Kitô hữu chết, Nước của Thiên Chúa sẽ sáng lên rực rỡ, và càng lâu càng rực rỡ hơn. Đến giờ chết, chỉ còn một điều đáng kể, đó không phải điều mà chúng ta đã chiếm đoạt: một viên ngọc quý, một kho tàng lạ, hay một huy chương vàng. Chỉ một điều có giá là chúng ta đã biến đổi ra sao qua những điểm tiến của cố gắng chúng ta khi đi tìm ngọc, khi đoạt được khi báu, khi thắng được huy chương vàng.

Bài Tin Mừng hôm nay đặt lên một điểm đáng ghê sợ và cốt lõi. Không có gì trong thế gian có quyền uy tiên hơn trên Nước Chúa và trên những phương sách chúng ta theo đuổi cho được chiếm đoạt Nước ấy.

Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta hay, điều còn đáng kể khi chúng ta chết, không phải là điều chúng ta đã dành được trong cuộc sống, mà là điều là biến đổi đời chúng ta.

Chúng ta đã học để thương yêu nhau không?

Chúng ta đã học để tha thứ cho nhau không?

Chúng ta đã học để giúp đỡ người nghèo khó không?

Chúng ta đã học để động viên những người nhút nhát không?

Chúng ta đã học để đi với tha nhân thêm dặm thứ hai không?

Chúng ta đã học để đưa má kia nữa cho người ta vả không?

Chúng ta đã học để đi dấn thân không? Và biết chân thành với Chúa và với nhau không?

Tôi hy vọng chúng ta đang chân thành với Chúa.

Tôi đang cầu xin với Chúa cho chúng ta được chân thành. Vì nếu chúng ta không chân thành, chúng ta đã phản bội với Chúa, với gia đình chúng ta, với bạn bè chúng ta. Và cuối cùng chúng ta cũng đã phản bội với chính mình chúng ta nữa.

[Mục Lục]

Bài 11. Khôn ngoan đích thực
Lm. Đam Trần Văn Điều

Saigon sau biến cố 1975, có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra:

* Thập niên 1990, nền kinh tế thị trường nở rộ, dân miền quê ùn ùn kéo về thành phố với hy vọng mưu sinh kiếm sống bớt cơ cực hơn. Vành đai thành phố Saigon được quy hoạch lại, chính phủ quyết định mở rộng thành phố đến vùng Thủ Đức, Củ Chi, Duyên Hải, Cần Giờ. Các nhà đầu tư liền bỏ tiền mua đất ruộng khu vực Giồng Ông Tố, ngã ba Cát Lái, xây nhiều biệt thự cao tầng. Giá đất tăng lên vùn vụt, các nông gia phút chốc trở thành những triệu phú bất đắc dĩ nhờ việc sở hữu chủ đất vàng, “kho tàng” thửa ruộng mình.

* Sau đó một thời gian, nghe nói có dự án chính phủ sẽ xây dựng một phi trường quốc tế rộng lớn ở vùng lân cận Saigon, khu Long Thành: nhằm thay thế phi trường Tân Sơn Nhất hiện tại vốn quá nhỏ bé, chỉ đáp ứng giải quyết được các chuyến bay quốc nội. Thế là giá đất đai từ ngã ba Vũng Tàu đi về Bà Rịa đột ngột tăng cao. Nhiều cư dân sống trong vòng đai qui hoạch của phi trường mới, vô tình chiếm hữu được “viên ngọc qúi” ngay trên thổ cư bất động sản của mình.

Ngày 10/3/2008, báo chí quốc tế lại đưa tin: bà Stead, một phụ nữ 49 tuổi ở New Abbot, hạt Devon nước Anh, khi đang ăn chiếc bánh bích quy giúp tiêu hoá của hãng Mc. Vitie’s, bất ngờ cắn phải một vật lạ, nhìn kỹ ra thì đó là một viên kim cương bé tí xíu. Người phụ nữ một con thật sự ngạc nhiên nhưng tỏ ra thích thú với món quà bất ngờ này. Bà Stead đâu ngờ mình may mắn làm chủ được “viên ngọc qúi” vô tình ấy.

Những câu chuyện thời sự trên giúp ta liên tưởng đến hình ảnh người nông gia tìm thấy kho tàng được chôn giấu trong ruộng và hình ảnh người lái buôn nhận ra giá trị viên ngọc qúi trong Phúc âm hôm nay. Họ sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc hoặc làm chủ được thửa đất ấy. Đầu óc khôn ngoan tính toán “một vốn bốn lời” khiến họ nhạy bén được vấn đề, nhận thức được giá trị vô cùng to lớn của những sản phẩm đó.

A. Óc khôn ngoan của người đời:

1. Sách Các Vua quyển thứ nhất (1V.3:5.7-12) cho ta thấy: Salomon lên nối nghiệp Cha là David làm Vua dân Israel. Trẻ người, non kinh nghiệm, cai trị một vương quốc rộng lớn bao quát cả 12 chi tộc, Salomon đã cầu khẩn Giavê Thiên Chúa trợ giúp mình. Chúa hứa Vua muốn xin gì, Ngài sẽ ban cho.

Salomon không xin Chúa ban cho vợ đẹp con khôn, tiền rừng bạc biển, danh vọng nhiều năm, sống lâu trăm tuổi… vốn là những ước mơ chung con người. Ông chỉ xin Chúa một điều cần thiết là Ơn Khôn Ngoan để biết phân biệt phải trái, đúng sai, tội phúc…mà hành xử dân Chúa cách hợp lý.

Quả thật, điều ông xin rất đẹp lòng Chúa. Chúa đã ban cho Salomon một trí khôn ngoan minh mẫn, phân xử chính xác trong vụ án Con Của Ai (1V. 3,16-28). Vua lại xây một đền thờ Giêrusalem lộng lẫy để kính Chúa, tiếc rằng nó bị sụp đổ thời Israel lưu đày.

2. Tài liệu lịch sử cũng ghi lại: Từ Hi Thái Hậu vốn là người yêu thích các loại đồ vàng ngọc, trân châu đá qúi. Năm 1895, bà đã khôn ngoan khéo léo cho xây một công trình lăng tẩm ở Đông Lăng, thuộc thành phố Tuân Hoá, tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa. Từ Hi đã kín đáo cất tất cả vàng bạc châu báu vào trong lăng tẩm ấy, đề phòng khi chết, chúng vẫn thuộc quyền sở hữu của bà. Sau 13 năm xây dựng, ngày 18/10/1908, lăng được hoàn tất: điều độc đáo là 4 ngày sau đó, Từ Hi Thái Hậu cũng qua đời, thọ 74 tuổi. Mọi vòng vàng được chôn theo với bà. Kho tàng trong lăng tẩm tưởng rằng được ẩn giấu mãi với thời gian.

Nào ngờ 10 năm sau đó, tháng 7 năm 1928, Tôn Điện Anh, một sĩ quan quân đoàn 12 của Quốc Dân Đảng đã dùng pháo binh mở đường khai quật lăng mộ Từ Hi Thái Hậu. Khi nắp quan tài được mở ra, ánh sáng chói loà, binh sĩ thấy vàng vòng ngọc qúi đầy dẫy. Cấp lớn đua nhau lấy thứ lớn, quân lính mon men lấy thứ nhỏ. Ai cũng giàu to, thậm chí Tôn Điện Anh còn hạ lệnh lột long bào của Từ Hi, lấy sạch châu báu trên người bà.

Tin đồn binh lính Tôn Điện Anh trộm báu vật của Tứ Hi Thái Hậu đến tai Thống chế Tưởng Giới Thạch. Ông ban lệnh điều tra kẻ chủ mưu, Tôn Điện Anh khôn ngoan nhờ cấp trên đi đêm với phu nhân Tống Mỹ Linh: tặng cho vợ Tưởng Giới Thạch nhiều báu vật, trong đó có chiếc mũ phụng quán gắn viên trân châu cực lớn của Từ Hi Thái Hậu. Tôn Điện Anh còn biếu riêng Tưởng Giới Thạch một thanh Cửu Long bảo kiếm cùng nhiều báu vật khác của các bậc vua chúa triều đình Trung Hoa. Nhờ đó, ông bình an vô sự thoát khỏi án phạt hình sự.

Có người dùng khôn ngoan để đoán xét công minh chính trực, ích dân lợi nước như Vua Salomon, nhưng cũng không thiếu những kẻ sử dụng khôn ngoan như một thủ đoạn gian lận, chiếm hữu như Tứ Hi Thái Hậu, như viên sĩ quan Tôn Điện Anh của vệ binh Quốc Dân Đảng Trung Hoa.

B. Những khôn ngoan ấy có giá trị lâu dài chăng?

1. Salomon nổi tiếng là vị Vua khôn ngoan hơn các Vua trước ông và sau ông (1V. 3,12). Qủa thật, suốt triều đại Ngài, vương quốc Israel được thanh bình, thịnh vượng. Nữ hoàng Saba từ phương Nam tìm đến Saolomon để học hỏi. Vua xây dựng đền thờ cho Chúa ngự trị giữa muôn dân. Óc khôn ngoan giúp Saolomon lãnh đạo thành công trong việc trị nước.

Thế nhưng sử liệu còn ghi: lúc về già, nhà vua yêu nhiều phụ nữ ngoại bang, nghe theo họ mà thờ các thần ngoại, mất lòng chung thủy với Chúa (1V.11:1-8). Rõ là khôn ba năm dại một giờ. Óc khôn ngoan sáng suốt thời trai tráng nay đã nên mê muội lúc xế chiều. Salomon đã chết trong sự dại khờ say đắm, lòng Vua xa rời Chúa.

2. Người nông dân khéo thăm dò địa chất tốt, biết rõ kho tàng chôn giấu trong ruộng. Bằng mọi cách, ông khôn ngoan thuyết phục chủ ruộng bán lại cho ông mảnh đất vàng đó. Có được kho tàng trong tay, ông nghĩ rằng cuộc đời ông từ nay sẽ giàu có, sung sướng lâu dài.

Thế nhưng cái chết đến bất thình lình, ông ra đi với hai bàn tay trắng, kho tàng ông chiếm hữu nay cũng xa lìa ông. Óc khôn ngoan tính toán đã chịu thua lưỡi hái tử thần.

3. Người thương gia biết thẩm định giá trị viên ngọc chính xác, ông sẵn sàng hy sinh mọi của cải đang có, để mua cho được viên ngọc qúi báu. Óc khôn ngoan định mức giúp ông tự tin, luôn cho rằng mình đang đầu tư một món hàng chắc chắn sẽ có lời sau này.

Thế nhưng phải đến ngày ông từ bỏ cuộc chơi thế trần, viên ngọc qúi mà ông trân trọng gìn giữ lâu nay bây giờ cũng trở nên vô nghĩa. Cái chết đã chấm dứt mọi lo toan.

4. Salomon, người nông dân và anh lái buôn: có lẽ cả 3 đều nghĩ rằng mình đã khôn ngoan đắc thủ được món quà giá trị nhất (sự thông minh sáng suốt, kho tàng vô giá, viên ngọc qúi báu).

Thực tế, những chiếm hữu ấy đều tạm thời vì họ chỉ sở hữu chúng một thời gian. Và như thế, óc khôn ngoan mà họ đã suy tính đâu có mang lại cho họ một giá trị vĩnh cửu.

C. Đâu là sự khôn ngoan đích thực?

Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài, là nguồn mọi sự hiểu biết, là nền tảng mọi thông minh thượng trí. Giữa mọi nghiên cứu thiên văn, nhà khoa học Isaac Newton đã khiêm nhường xác tín: “Tôi nhận ra Thiên Chúa ngay trên đầu viễn vọng kính của tôi”. Như thế, Thiên Chúa là nguồn mọi khôn ngoan. Đi tìm sự khôn ngoan đích thực chỉ có ở nơi Ngài và trong Ngài.

1. Chính Thiên Chúa đã ban cho ta thửa ruộng vàng, đất vàng, có kho tàng cao qúi ẩn giấu trong đó.

* Thửa ruộng vàng, đất vàng ấy chính là Nước Trời.

* Trong Nước Trời ấy có kho tàng cao qúi là Đức Tin Công Giáo, là Giáo Hội.

Chúa Giêsu phán với các bệnh nhân: “Đức tin của con đã cứu chữa con”. Trong đức Tin, ta học hỏi Giáo Lý Giáo Hội, sống tuân giữ giới răn Chúa, nuôi dưỡng ta nên tốt lành, xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Trong Giáo Hội, ta nhận được Ơn Cứu Rỗi, được kín múc Ơn Thánh Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua việc lãnh nhận các Bí tích…là những hành trang đưa ta vào Nước Trời.

2. Chính Thiên Chúa cũng đã ban cho ta một viên ngọc qúi là chính Đức Giêsu Kitô.

* Qua bí tích Thánh Thể, ta có được Đức Giêsu ở trong mình.

* Chúa Giêsu phải là viên ngọc qúy giá nhất mà ta luôn trân trọng bảo trì tốt.

“Có Chúa đi với con, con nào sợ thiếu thốn chi? Có Chúa ở bên con, con nào lo lắng gì?”

“Có Chúa trong lòng, địch thù tan nát hết. Chúa trong lòng ta, lo lắng gì hồn tôi ơi!”

Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.

biết Chúa là viên ngọc qúy thật sang giàu,

biết con chỉ là thụ tạo thấp bé, thật nghèo hèn,

để suốt đời, con chỉ say sưa đi tìm Chúa là hạnh phúc đích thực đời con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 12. Nước Trời giống như kho báu
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Tiếp nối bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,44-52) gồm ba dụ ngôn về Nước Trời: dụ ngôn kho báu (c.44), dụ ngôn viên ngọc (cc.45-46) và dụ ngôn chiếc lưới (cc. 47-50). Kết thúc là một lời kết luận chung về các dụ ngôn (cc.51-52).

1. Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý (cc.44-46)

“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (cc.44-46).

Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc có chung một điểm nhấn quan trọng về nội dung giáo huấn: Nước Trời không phải chỉ là chuyện của ước muốn hay ý chí, mà chính yếu là niềm vui của một cuộc tìm kiếm thành công bất ngờ ngoài sự mong đợi, và đặc biệt, là kết quả của một cuộc dấn thân đòi phải dám phiêu lưu. Sự từ bỏ tất cả những gì mình đang có không phải là một hành động tu đức, hy sinh hay hãm mình, mà là một chọn lựa tự nguyện cùng với niềm vui lớn lao.

Sứ điệp và trải nghiệm về mầu nhiệm Nước Trời làm cho mọi giá trị đã được biết từ trước tới nay bỗng trở nên tương đối. Tất nhiên những thực tại tốt lành khác vẫn là những thực tại có giá trị, như sức khoẻ, gia đình, nghề nghiệp, danh dự, học vấn, sự thành công, tình bạn, tình yêu đôi lứa… Nhưng chúng sẽ là tương đối trong so sánh với mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa ẩn mình nơi những sứ điệp và hoạt động của Chúa Giêsu. Ai hiểu những sứ điệp và mầu nhiệm đó sẽ khám phá nơi chúng những giá trị tuyệt đối, quý hơn tất cả những gì khác trong cuộc đời. Người đó sẽ dám bỏ đi tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình, vì Nước Thiên Chúa, bởi lẽ anh ta đã biết rằng đó là kho tàng quý giá duy nhất có khả năng làm cho sự sống của anh ta trở nên thực chất và giàu có vô cùng. Đó cũng là kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, vì mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,7-9)

Cuối cùng, hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc, một lần nữa, đề nghị người nghe chọn lựa sự nghèo khó như được nói trong 5,3 (“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”), khi lặp đi lặp lại: “bán tất cả những gì mình có” (cc.44.46). Kho báu và viên ngọc quý, như thế, chính là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa (“Nước Trời là của họ”). Kinh nghiệm đó tạo nên niềm vui sâu xa trong tâm hồn. “Kho tàng anh ở đâu thì lòng anh ở đó” (6,20).

2. Dụ ngôn chiếc lưới (cc.47-50)

“Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (cc.47-50).

Đây là dụ ngôn cuối cùng trong một loạt 7 dụ ngôn ven biển hồ về Nước Trời, được ghi lại trong Mt 13. Dụ ngôn cuối cùng này có kèm lời giải thích. Về nội dung, chúng ta gặp lại sứ điệp của các dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, nhưng nhấn mạnh hơn về ngày chung thẩm.

Như đàn cá bơi dưới biển, gồm đủ mọi thứ cá tốt xấu khác nhau, cộng đoàn Hội Thánh cũng gồm những người tốt kẻ xấu. Nhìn bề ngoài, không có chuyện gì khác biệt, nhưng khi chiếc lưới đã được kéo lên bờ, sự phân biệt sẽ xảy đến: cá tốt và cá xấu sẽ có số phận khác nhau hoàn toàn.

Sự đối lập “cá tốt” và “cá xấu” tương ứng với sự đối lập giữa cây tốt với cây xấu trong 7,15-19. Vậy những “cá xấu” ở đây chính là các ngôn sứ giả, những đồ đệ giả, những con sói đội lốt chiên, những kẻ chỉ có vẻ bề ngoài theo Chúa Kitô còn thực chất là chạy theo những giá trị giả trá và không thực… Trong lời giải thích ở câu 48, họ bị gọi là những “kẻ xấu”.

Số phận của họ sẽ là bị quăng vào lò lửa (c.50). Nỗi đau đớn kinh hoàng và không bao giờ chấm dứt trong số phận chung cuộc của họ được miêu tả bằng những hình ảnh đáng sợ: “khóc lóc” và “nghiến răng”. Điều căn bản làm nên nỗi đau đó chính là sự vĩnh viễn mất đi sự sống đích thật. Nhưng dụ ngôn đề cập đến số phận chung cục như thế là nhằm giúp các môn đệ xác định hướng đi đúng đắn trong những quyết định hiện tại. Chỉ những ai sinh hoa quả tốt mới được đạt tới sự sống đời đời.

3. Kết luận về các dụ ngôn (cc.51-52)

Kết thúc các dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu.”52 Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (cc.51-52).

Giáo huấn dành cho các môn đệ được kết thúc trong khung cảnh mang tính riêng tư giữa Chúa Giêsu với các ông mà thôi. Tác giả Tin Mừng quay lại với chủ đề “hiểu”, vốn là chủ đề xuyên suốt Mt 13 (cc.13.14.15.19.23.51). Đã được hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời, các môn đệ phải trình bày mầu nhiệm đó cho những người khác. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh một sự khác biệt lớn giữa các “bậc thầy” trong cộng đoàn Kitô giáo với các bậc thầy trong cộng đồng Do Thái giáo. Các kinh sư Israel mang trên vai gánh nặng của cả một truyền thống giải thích lớn lao vốn không cho phép mọi sự vượt quá giới hạn cổ xưa. Các “kinh sư đã được học hỏi về Nước Trời”, tức là các bậc thầy trong cộng đoàn Kitô hữu, thì không bị lệ thuộc vào truyền thống cổ xưa ấy. Đối với họ, ưu tiên số một sẽ là “cái mới” trong kho tàng mầu nhiệm mà họ đã được học hỏi; “cái cũ” phải lệ thuộc cái mới đó. Nói cách khác, họ không đặt đạo lý của mình trước hết trên nền tảng là những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã nói, mà là trên chính mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Họ bắt đầu bằng sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu và đó chính là chìa khoá giúp họ đọc toàn bộ kho tàng Cựu Ước.

Không ít học giả hiểu rằng có lẽ tác giả Tin Mừng Mt muốn kín đáo tự nói về chính mình trong câu này.

Gợi ý suy niệm và chia sẻ:

1. Tác giả Mt không có ý nói về tính cách luân lý trong quyết định và cách hành xử của người đi tìm kho tàng và người đi tìm viên ngọc quý trong hai dụ ngôn ở đầu bài Tin Mừng hôm nay. Vì vậy, sẽ không chính xác nếu chúng ta buộc ông phải trả lời về vấn đề này. Điểm nhấn mà ông nhắm tới là niềm vui của con người gặp được mầu nhiệm Nước Trời, vốn là thực tại tuyệt hảo, cao quý hơn tất cả mọi giá trị khác.

2. Điều quan trọng không phải là ao ước Nước Trời, mà phải tìm kiếm, và nhất là phải quyết định, phải chọn lựa và phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy Nước Trời. Kho tàng quý và viên ngọc quý sẽ không thuộc về chúng ta nếu chúng ta không dám quyết định bán tất cả những gì mình đang có.

3. Một trong những yếu tố đáng lưu ý là niềm vui tràn ngập tâm hồn các nhân vật trong hai dụ ngôn kho tàng quý và viên ngọc quý. Niềm vui đó vừa diễn tả độ lớn của niềm khao khát vừa là yếu tố thúc đẩy người ta mau mắn quyết định bán tất cả những gì mình đang có. Chúng ta đón nhận mầu nhiệm Nước Trời trong hân hoan hay miễn cưỡng? Chúng ta sống các mầu nhiệm thánh trong Đạo với niềm vui hay với sự chán nản mệt mỏi? Sứ điệp mà chúng ta công bố với thế giới có là tin mừng hay không?

4. Số phận thật của những con cá khi mẻ lưới được kéo lên sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào chất lượng của những con cá ấy. Những con cá xấu sẽ bị ném ra ngoài. Vì thế, trước khi tấm lưới được kéo lên trong ngày chung thẩm, chúng ta cần phải trở thành những con cá tốt. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào chất lượng của cuộc sống hiện tại này.

5. Điểm quy chiếu chính yếu, nền tảng căn bản và đầu tiên, có tính quyết định, phải là chính Đức Giêsu và đạo lý của Ngài, chứ không phải là những truyền thống cổ xưa của con người, cho dù là những truyền thống tốt lành. Chính Đức Giêsu sẽ là tiêu chuẩn đánh giá những truyền thống ấy, những thực tại “cũ” ấy. Người kinh sư đã được hiểu biết mầu nhiệm Nước Trời sẽ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào các truyền thống Do Thái cũ như các kinh sư Do Thái nữa. Điểm quy chiếu có tính quyết định luôn luôn là chính Chúa Giêsu, Đấng là chính thực tại Nước Trời giữa chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 13. Nước Trời
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thiên Chúa đã yêu thương và ưu đãi vua Salômôn qúa nhiều. Thiên Chúa đã giáng phúc và ban mọi phước lành cho đời của ông. Vua cha Đavid đã chọn Salômôn lên kế vị ngôi vua. Chúa đã rộng ban cho ông những ơn cần thiết tùy ông cầu xin. Vua Salômôn đã thưa: Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này (1Vua 3, 9). Salômôn đã không xin cho được giầu sang phú quý hay sống lâu. Vua chỉ xin Chúa ban ơn khôn ngoan. Ơn khôn ngoan là đầu mối của tất cả các niềm an vui và thành công trong đời. Khôn ngoan để biết phân biệt lành dữ và biết xét xử đúng sai trước mặt Chúa.

Ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho vua Salômôn ân sủng theo ý sở nguyện. Vua đã dùng ơn khôn ngoan để cai quản dân chúng và điều hành quốc gia dân tộc một cách an bình thịnh vượng. Chúa chấp nhận lời cầu: Thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi và sau ngươi không có ai bằng ngươi (1Vua 3, 12). Đây là sự khôn ngoan đích thực. Chúng ta biết ở đời có rất nhiều người khôn, nhưng chưa chắc đã ngoan. Thiên Chúa ban cho con người có khả năng và trí thông minh, nhưng họ lại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình để phủ nhận và chống đối lại Thượng Đế. Có nhiều người tuy tài giỏi lỗi lạc về các môn khoa học đời, nhưng lại chối bỏ sự khôn ngoan thượng trí của Tạo Hóa. Nhiều người tự mãn rằng họ có trí tuệ nhưng đã tỏ vẻ huênh hoang và kiêu ngạo không chấp nhận sự quan phòng của Thiên Chúa trong vũ trụ và đời sống của các loài thụ tạo. Hãy nhớ rằng con người chúng ta chỉ là một loài thụ tạo giới hạn trong thời gian và không gian. Có đó rồi biến đó.

Vua Salômôn là một bậc minh quân. Ông biết phân biệt trời cao đất thấp. Quy phục quyền năng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì con người yếu đuối lầm lỗi, Salômôn cũng không tránh khỏi những cám dỗ cả về danh, lợi và thú. Cuối đời, đã có lần ông rời xa Chúa, chạy theo các thần dân ngoại của các bà vợ và lập đền thờ cúng. Tuy nhiên, vì tình thương, Thiên Chúa vẫn chúc lành cho đời của ông lập được nhiều thành qủa tốt đẹp. Ông đã hoàn tất công trình của Vua Đavid là xây dựng đền thờ nơi Chúa ẩn ngự. Ông khéo léo cai quản gìn giữ quê hương xứ sở bình an trong suốt thời kỳ dựng xây nhà Chúa. Chúa ban cho ông ân lộc dư tràn và đất nước thịnh vượng một thời. Danh tiếng của ông vang khắp miền.

Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một vài hình ảnh về Nước Trời. Nước Trời được ví như một kho tàng, một viên ngọc quý và một mẻ lưới đầy cá. Nước Trời ở ngay tại thế, nếu chúng ta cố công đi tìm, sẽ gặp. Nước Trời không phải là một số kiến thức, một triết thuyết hay một chủ trương sống, mà là một kho tàng được chôn giấu cần ơn giác ngộ: Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh ta có mà mua thửa ruộng ấy (Mt 13, 44). Kho tàng này là một món qùa qúy, không phải vàng bạc châu báu, nhưng là lời khôn ngoan. Kho tàng nằm trong Lời Chúa và Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu đã giảng trên núi. Thật hạnh phúc cho ai giác ngộ sống theo Bát Phúc này.

Nước Trời được ví như viên ngọc quý, khi tìm thấy, người ta bán mọi sự để mua được viên ngọc đó. Ngọc quý là chính ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một hạ thân cứu độ chúng sinh. Viên Ngọc quý từ trời ban xuống là Đức Kitô đã hy sinh hiến mình để cứu độ nhân loại. Qua bao đời, có biết bao nhiêu người đã nghe giảng, học biết và tin nhận Chúa Kitô là Con Thiên Chúa giáng trần. Họ đã tìm được viên ngọc qua đời sống đức tin trong Giáo Hội. Cửa Nước Trời đã mở ra thâu nhận những ai muốn kiếm tìm và sống niềm tin. Mọi người đều có thể sở hữu viên ngọc quý của Nước Trời. Viên ngọc của ân sủng, của tin yêu và hy vọng. Chúa Giêsu đã sắm sẵn cho mọi người.

Ai tin vào Chúa thì sẽ được lãnh nhận ơn cứu độ.

Một hình ảnh rất cụ thể: Nước trời giống như chiếc lưới thả xuống biển, bắt được mọi thứ cá (Mt 13, 47). Nước Trời khởi sự tại trần gian nhưng qui hướng về trời. Chiếc lưới có đủ mọi thứ cá, có nghĩa là Nước Trời nơi trần thế bao gồm tất cả mọi thành phần cần biến đổi. Trong đời sống Giáo Hội, có nhiều thành viên thánh thiện, tốt lành, đạo đức và cũng bao gồm nhiều người bình thường, chuộng danh nghĩa, sống hình thức, chỉ mang danh Kitô hữu, nhưng không sống đạo hoặc gồm cả những thành phần sa chìm tội lỗi, sống bê bối và lãnh đạm thờ ơ. Hình ảnh một Giáo Hội đang trên đường lữ thứ trần gian cần sự kiên nhẫn thanh lọc, canh tân đổi mới và tinh luyện con người nên tốt hơn và thánh thiện hơn. Vì Đạo chính là đường dẫn chúng ta tới quê thật là Nước Trời.

Chúa Giêsu dậy rằng am tường sự khôn ngoan là biết lợi dụng mọi môi trường và hoàn cảnh để dẫn lối vào Nước Trời. Trong kho tàng của Giáo Hội chất chứa mọi thứ cũ mới như những viên ngọc quý: Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới cũ trong kho mình (Mt 13, 53). Mọi lời khôn ngoan đã được mạc khải trong Sách Thánh. Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Ngôi Lời đã tỏ cho chúng ta biết về chương trình cứu độ và mở cửa Nước Trời đón nhận chúng ta. Học biết lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta có thể hiểu biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với các cha ông và các tổ phụ trong thời Cựu Ước. Giáo ước đã dẫn bước dân của Chúa tới giao ước mới được ký kết bằng Máu châu báu của chính Chúa Kitô. Muốn hiểu được ý nghĩa của Nước Trời, chúng ta cần phải tìm hiểu kho tàng ơn cứu độ trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.

Thiên Chúa tạo dựng muôn loài trong vũ trụ. Mỗi loài đều có một cùng đích để nhắm tới. Không có vật gì, sự gì hay sự sống nào là vô ích. Sự liên kết chằng chịt giữa các phần tử trong vũ trụ đều liên đới và bổ túc cho nhau để hiện hữu. Khoa học con người chưa thể khám phá ra tất cả ý nghĩa cao sâu của mầu nhiệm sáng tạo. Sự an bài và quan phòng của Thiên Chúa cho mỗi loại và mỗi loài theo ý định của Người. Riêng con người mang hình ảnh của Thiên Chúa được chia phần vinh quang cách đặc biệt. Trong thơ gởi tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô viết: Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi họ, và những ai Người đã kêu gọi, thì Người cho họ được vinh quang (Rm 8, 30). Thiên Chúa tiền định thế nào, chúng ta không biết, nhưng tin rằng chúng ta sẽ được chung phần hưởng vinh quang với Đức Kitô. Chúa đã gọi chúng ta vào đời và tái sinh chúng ta làm con Chúa qua Bí tích Rửa Tội. Niềm hy vọng của chúng ta là cùng được sống lại với Chúa Kitô trong ngày sau hết.

Lạy Chúa, Chúa đã mở cửa Nước Trời đón nhận những ai tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa và trung thành thực thi lời Chúa, để canh tân cải biến đời sống mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết gìn giữ kho tàng ngọc quý mà Chúa đã trao ban để sinh hoa kết quả tốt lành và thánh thiện.

[Mục Lục]

Bài 14. Nước Trời quý giá
Đam. Lê Đức Thiện

Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn kho báu giấu trong ruộng, dụ ngôn viên ngọc quý và dụ ngôn cái lưới đánh cá. Dụ ngôn cái lưới đánh cá, ý nghĩa gần giống như dụ ngôn cỏ lùng, đã được nói tới vào Chúa Nhật tuần trước. Vì thế, ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý. Hai dụ ngôn này có ý nghĩa tương tự nhau.

Trước hết, chúng ta thấy hai dụ ngôn này đều nhằm mục đích diễn tả sự quý giá tột bậc của Nước Trời, không một thứ gì ở trần gian quý giá bằng hay có thể sánh ví được. Tuy nhiên, trong dụ ngôn thứ nhất, Nước Trời quý giá vì đem lại lợi ích vô cùng to lớn, là được hạnh phúc đời đời, còn dụ ngôn thứ hai, Nước Trời quý vì vẻ vinh quang tuyệt vời của nó. Trong dụ ngôn trước, kho báu đến với người nông dân một cách ngẫu nhiên, tình cờ, tức là nhấn mạnh đến hạnh phúc Nước Trời do tình yêu Thiên Chúa ban nhưng không. Còn trong dụ ngôn sau cho biết ông thương gia phải vất vả tìm kiếm viên ngọc quý tức là muốn nói đến thái độ phải cộng tác tích cực vào việc chiếm hữu Nước Trời. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, Nước Trời luôn luôn là điều quý giá nhất, đòi hỏi người ta phải hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được.

Đàng khác, hai dụ ngôn này còn cho chúng ta thấy thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu cũng như của người tìm được viên ngọc quý. Họ bán hết gia tài sản nghiệp để mua, vì họ biết chắc rằng: kho báu kia, viên ngọc quý kia đáng giá hơn gia tài sản nghiệp họ đang có. Và đây cũng chính là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: người nào biết đi tìm Nước Trời trước nhất, dám hy sinh tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống, để chiếm đoạt cho bằng được, đó là người khôn ngoan. Chúng ta biết, khôn ngoan là một ân huệ, một đức tính cao quý, làm cho trí khôn chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, mọi công việc, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng.

Tuy nhiên, khôn ngoan cũng có nhiều thứ: khôn ngoan xác thịt, khôn ngoan tự nhiên và khôn ngoan siêu nhiên. Khôn ngoan xác thịt là cái khôn chỉ biết khéo léo tìm mọi cách để thực hiện những ước muốn tội lỗi, để thỏa mãn những khát khao của dục vọng, danh giá và tiền tài. Chẳng hạn vua Đa-vít, sau khi phải lòng và sa ngã với bà Bét-sa-bê, ông đã khôn khéo biết bao: nhà vua đã bày mưu tính kế để cho U-ri-a, chồng bà Bét-sa-bê về thăm nhà và ép ông uống rượu để giấu nhẹm tội ngoại tình của mình. Không thành công ông lại khôn khéo làm cho U-ri-a chết ngoài mặt trận để được tự do thoải mái kết hôn với bà Bét-sa-bê. Chúng ta có thể nói: bao nhiêu mánh lới, bao nhiêu thủ đoạn, bao nhiêu cách thức để đạt được mục đích chơi bời, thỏa mãn bản năng,… bấy nhiêu trường hợp đều cần đến trí óc suy nghĩ, xếp đặt, lừa dối, trá hình khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan ấy là khôn ngoan xác thịt. Cái khôn mang lại những thiệt thòi, đổ vỡ, hối hận. Cái khôn mà người liêm khiết khinh chê, miệng đời đàm tiếu, mai mỉa. Cái khôn mà thánh Phao-lô đã kết án, vì nó đối nghịch lại Thiên Chúa và thiệt hại cho linh hồn.

Tiếp đến, khôn ngoan tự nhiên là cái khôn chỉ khéo léo lựa chọn những phương thế tốt đẹp để đạt mục đích tự nhiên mà không quy về mục đích sau cùng. Chẳng hạn tài khéo trong việc buôn bán, tính toán giỏi trong công việc làm ăn, bặt thiệp trong việc giao tế với mọi người. Đó là sự khôn ngoan để dùng người, khôn ngoan để được vật chất, lợi lộc trần gian. Người phú hộ trong Tin Mừng đã khôn ngoan kiểu này: thấy mùa màng bội thu, không đủ chỗ chứa hoa lợi, nên ông tính toán: phá kho lẫm cũ, xây kho lẫm mới rộng lớn hơn. Bảo đảm rồi, yên chí lớn nghỉ ngơi, hưởng thụ. Nhưng Chúa đã bảo: “Người khờ dại, chính đêm nay ngươi chết, thì của cải ngươi thu tích để lại cho ai?”. Thánh Mátthêu cũng ghi lại lời Chúa Giêsu kết án thứ khôn ngoan này: “Được lời lãi cả thế gian, mà không được Nước Trời thì ích gì?”.

Sau hết, khôn ngoan đích thực là cái khôn của những người, trong mọi hoàn cảnh, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng. Người có khôn ngoan này biết khước từ những khoái cảm chốc lát, vì biết rằng nó sẽ khuấy động lương tâm, làm mất bình an, làm phai nhạt hình ảnh Thiên Chúa trong tâm hồn. Họ biết lánh xa nếp sống dễ dãi, đua đòi, vì sợ xác thịt được voi sẽ đòi tiên, sợ lời cảnh cáo: “Ai gieo trong nguy hiểm, sẽ ngã trong hiểm nguy”. Người có thứ khôn ngoan này biết suy rằng: không phải bất cứ cái gì thiên hạ làm được là mình cũng có thể làm được. Họ biết rằng: có nhường nhịn đôi chút thì cũng chẳng mất mát gì, nhưng chắc chắn sẽ được đền bù. Họ biết rằng: có phải ép mình cầu nguyện nửa giờ, dự thánh lễ một tiếng, chỉ là cách đổi công khó nhọc chóng qua để lấy những công phúc to lớn hơn. Người có thứ khôn ngoan này, biết lợi dụng những cái trước mắt để sinh ích lợi sau này, nhưng luôn cảnh giác: không vì cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng.

Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Nước Trời là kho báu vĩ đại nhất, là viên ngọc quý giá nhất, chúng ta phải cố gắng, phải hy sinh để kiếm cho bằng được. Bởi vì đời là một dịp tiện, moi ngày sống là một dịp may, chúng ta có ý chí, tự do và khôn ngoan để lựa chọn. Vì thế, chiếm đoạt được Nước Trời hay không là do chính chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 15. Bán tất cả để mua viên ngọc quý
Đỗ Lực

Hành trình của đời người là một hành trình đi tìm kho báu, nghĩa là đi tìm hạnh phúc. Đó là một mục tiêu chính đáng. Tuy nhiên, như Đức Giêsu đã nói: “Kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,34), chúng ta hãy tự hỏi xem hạnh phúc mà chúng ta đang tìm kiếm thực sự là gì? Có phải chăng đó là tiền bạc, là quyền uy, danh vọng và khoái lạc? Chúng có đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc thật sự không, hay sự giàu có về của cải vật chất chỉ làm cho con người thêm lo âu, và lối sống hưởng thụ chỉ khiến người ta thêm trống rỗng?

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta biết rằng, kho báu thật sự, hạnh phúc thật sự mà con người cần tìm kiếm chính là Nước Trời. Thật vậy, Nước Trời là một viên ngọc quý, một kho tàng vô giá mà bất cứ ai có được quả là may mắn và hạnh phúc. Đối với Thiên Chúa, họ là những người khôn ngoan và giàu có, cho dù trong con mắt của thế gian, họ có vẻ điên rồ và nghèo khó.

Nước Trời không phải là một ảo tưởng. Nước Trời đem lại cho con người sự bình an trong tâm hồn, niềm vui trong trí tuệ và vẻ đẹp trong cuộc sống này, vì nó giải phóng chúng ta khỏi mọi sự mê hoặc của những kho tàng dưới đất, nhờ một niềm xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, cũng như nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trọn vẹn trên Quê Trời.

Đời sống chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có Thiên Chúa. Mối liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa chính là một kho tàng thật sự. Nhờ đó chúng ta biết mình sẽ đi về đâu, cùng đích của đời sống chúng ta là gì. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta điều chúng ta hằng khao khát kiếm tìm. Có Thiên Chúa là có tất cả, nếu chúng ta tin (Mc 9,23; 10,27).

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giống như người nông dân và người buôn ngọc, khi phát hiện được viên ngọc quý giá, họ đã ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua cho bằng được viên ngọc, xin cho chúng con cũng biết can đảm và vui tươi, sẵn sàng ra đi, bán tất cả nhửng gì mình có để mua lấy hạnh phúc Nước Trời.

Xin cho lòng chúng con luôn thanh thoát trước những kho báu phù phiếm ở đời này, biến “bán” đi những đam mê, ích kỷ của mình mà mua lấy kho báu bất diệt trên trời.

Lạy Chúa, xin cho chúng con đừng bao giờ quay lưng lại trước những lời mời gọi của Chúa; không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ, tránh cái nhìn yêu thương mà Chúa luôn dành cho chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 16. Suy niệm của Lm. Gioan B. Phan Kế Sự

“Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có” (Mt 13,44-52)
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?”

“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng; tựa như thương gia đi tìm hạt ngọc quý và cũng giống như chuyện chiếc lưới cá thả xuống biển… Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy.”Những dụ ngôn tiếp nối những dụ ngôn mà chúng ta được Chúa Giêsu giảng giải. Chuyện Nước Trời thật đơn giản và dễ hiểu như những chuyện đời thường, nhưng quan trọng là chúng ta có hiểu hay có muốn hiểu hay không.

Nhiều người “thưa hiểu” nhưng thực sự chẳng hiểu, chẳng biết cái gì cả…

Vì họ cũng chỉ trả lời như cái máy, “theo phong trào”, cho nó vui, cho có bè có bạn. Bởi cách sống của họ là cái vỏ bề ngoài, là cái hình thức hấp dẫn “không đụng hàng” chứ không cần cái nội dung, cái chất lượng.Cái gật đầu của họ cũng chẳng qua là cho nó “có” với chúng bạn.

Vì họ hiểu theo “kiểu của họ”: Chúa phải là người phục vụ họ, làm theo ý muốn của họ và Chúa trở thành “con rối”của lòng tham.Rốt cục “họ nói hiểu mà thực chất chẳng hiểu gì!”.

Vì họ chỉ hiểu theo “nghĩa đen” và cuộc đời của họ là những chuyện quanh quẩn của những hành động “vơ, vét, vào”: là mong đạt được những gía trị trần thế,là có được của cải mối mọt xông đến được,để rồi ngày tận thế là một sự thất vọng và trở thành “kẻ bị loại trừ”.

Nhiều người “thưa hiểu” và quả thực họ hiểu được ý nghĩa sâu xa của những dụ ngôn về Nước Trời và dám can đảm đầu tư tất cả để tìm được những kho tàng vô gía và sự tồn tại của mình. Người đời vẫn thường dạy “có gan thì làm giàu”.Họ vui mừng ra về và bán hết tất cả những gì mình có để được Nước Trời.

Khôn ngoan của người hiểu biết là sự chọn lựa giữa những cái vô gía và cái “có giới hạn”.

Khôn ngoan của người thương gia là dám can đảm bán hết tất cả, đánh đổi tất cả để chiếm hữu cả kho báu.

Khôn ngoan của người hiền lành là biết đứng về phía cá tốt để “được chọn lựa” và “không bị vứt ra ngoài” trong ngày tận thế.

“Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy…. Họ đáp lại: thưa hiểu”

Chẳng ai dại mà nhặt cá xấu để bỏ vào giỏ, nhưng ngược lại.

Thiên sứ sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính.

Như chủ nhà lấy ra từ kho của mình cả cái xấu lẫn cái cũ,để lọai trừ.

Và sẽ chẳng bao giờ có cơ hội lần thứ hai, cho bất kỳ ai và cho cả chính chúng ta.

Người đời vẫn thường nói “Khôn chết, dại chết, biết sống”. Qủa thế,người hiểu biết là người khôn ngoan hơn cả.Biết, vì không ai chết hoặc chịu thưởng phạt cho ai cả. Biết, vì mọi người phải tự quyết định đời mình mà không ai có thể giúp gì cho ai được. Biết, vì tốt xấu sẽ được phân định một cách rõ ràng mà chẳng ai đứng ra biện hộ hoặc phân bua cho ai được cả. Chúa đã ban cho chúng ta sự tự do và mỗi người phải chịu trách nhiệm về chính sự tự do của mình.

Họ đáp “thưa hiểu” và Chúa đã dạy “hãy biết tận dụng cả cái mới cái cũ trong kho của mình” để đầu tư cho sự chọn lựa của chính đời mình. Cái khôn của người hiểu biết là can đảm “bán hết tất cả” để có được cái vĩnh cửu,cái đời đời, không mối mọt và hư họai.

Lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt chọn lựa cứu cánh cho cuộc đời mình và xin cho chúng con “biết liều” với sự chọn lựa đúng đắn để trở thành “cá tốt” được bỏ vào giỏ. Xin giúp mỗi người chúng con luôn can đảm, kiên trì sống với chính sự chọn lựa của mình trong tin tưởng, tín thác vào tình thương Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 17. Kho báu – Viên ngọc quý
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Một hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu lên: “Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông”. Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi “Viên ngọc quý nào?”. Ông ta nói: “Đêm qua tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giàu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý đó”. Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: “Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông”.

Người ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: “Từ nay mình sẽ là người giàu có, không phải vất vả gì nữa”. Thế nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và nói: “Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót”.

Viên ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước từ mọi giàu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay.

Bài Tin Mừng là hai dụ ngôn “kho báu” và “viên ngọc quý”. Kho báu và viên ngọc quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đứng vậy, cả hai dụ ngôn đều muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không của cải nào sánh bằng. Cao quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.

Hai hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quý” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết gía trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý giá kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.

Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện “Ông già xứ Ba Tư”, xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước nầy sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.

Nhiều người chúng ta cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc nước trời và những hồng ân của nước ấy mà chúng ta không biết chăng? Đây không phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cữu, chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước trời như kho báu, như viên ngọc quý mà chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm hữu. Quả thực, mọi người Kitô chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời. Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này.

Nói cụ thể hơn, nước trời đây là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong. Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu.

Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống…đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.

[Mục Lục]

Bài 18. Ăn xin
Lm. Vũ Đình Tường

Ngay từ nhỏ những dịp đi xa, mỗi lần xe đậu tại bến xe đò, bến phà hay ga tầu hoả, nhiều lần được nghe câu.

Ông bà cô bác làm ơn cho xin đồng tiền, bát gạo.

Người ăn xin bao giờ cũng nhắm đến xin người giầu có hơn mình, không xin người nghèo khổ hơn. Thực ra xin người nghèo khó hơn mình họ có gì để cho. Vì thế câu xin nhắm đến đối tượng ông bà, cô bác. Đây là bậc trưởng thượng trong xã hội, mới có dư giả để cho. Họ cũng xin rõ ràng mạch lạc. Không xin gì khác ngoài đồng tiền, bát gạo. Thực ra mấy ai đi đường mang theo gạo để sẵn có gạo mà cho. Vì thế hầu hết người ta cho tiền để người ăn xin tự đi mua gạo và nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Người làm việc bác ái dọc đường không cần biết người ăn xin tiêu tiền như thế nào, với mục đích gì. Họ đáp lại theo yêu cầu xin cho cơm ăn, áo mặc của kẻ nghèo khó. Người ăn xin hoàn toàn tự do chi tiêu số tiền đó theo hoàn cảnh riêng từng người.

Nên nhớ không phải tất cả những người xin ăn đều phung phí, tay trắng cả đâu. Họ cũng biết tích trữ chứ. Người ăn xin không nhà cửa ngoại trừ chỗ ngủ qua đêm, tránh mưa gió. Hẳn nhiên chỗ đó không an toàn nên có lẽ tiền xin dư hay để dành được họ phải tìm cách chôn giấu quanh đâu đó. Chỗ giấu hay nhất chính là chôn dưới đất. Chẳng may người đó mất đi nếu chủ ruộng tìm được, đương nhiên hưởng gia tài chôn dấu đó.

Phúc âm nhắc đến dụ ngôn người tìm được kho tàng chôn dấu anh ta bán hết mọi sự tìm mua thửa ruộng đó. Kho tàng đây không phải của người mù chôn dấu. Kho tàng Đức Kitô muốn nói tới là kho tàng ai cũng nhìn thấy nhưng người tham của cải thế gian sẽ mù quáng không nhận ra. Chỉ những ai dám bán hết gia tài để mua mới nhận ra. Bán hết gia tài để được giầu hơn. Nghe có vẻ nghịch lí. Người ngoài nhận xét anh là chủ ruộng nghèo vì đã bán hết mọi sự. Ngoài ruộng ra anh còn chi. Thực tế anh giầu hơn không phải vì đất ruộng tăng giá. Anh giầu hơn vì anh có thửa ruộng cộng thêm kho tàng chôn dấu trong ruộng.

Người xưa dùng hình ảnh viên ngọc quí và hình ảnh chủ ruộng là hình ảnh của khôn ngoan. Chỉ người khôn ngoan mới có khả năng tậu viên ngọc và có tiền làm chủ ruộng. Đại đa số đều làm thuê, công nhân. Viên ngọc quí và kho tàng chôn trong ruộng là hai hình ảnh Đức Kitô dùng chỉ về nước trời. Người giầu có là người có Lời Chúa làm chủ cuộc đời. Người khôn ngoan là người được Lời Chúa soi sáng trong đời. Muốn được Lời Chúa làm chủ cuộc đời người đó cần bán bỏ tất cả những chủ khác để chọn một chủ duy nhất. Chọn như thế anh sẽ một lòng trung thành với chủ. Đầy tớ trung thành với chủ là đầy tớ khôn ngoan. Khôn ngoan không phải do anh học được mà do giáo huấn chủ giáo dục, hướng dẫn biến anh trở thành người đầy tớ khôn ngoan. Nói cách khác khôn ngoan anh có được là do chủ ban cho. Anh giầu có không phải vì miếng ruộng, mảnh vườn. Anh giầu có vì gia tài anh có không bị mối mọt đục khoét, không hư hao, mất giá vì thời gian.

Chọn Chúa là Đấng duy nhất làm chủ đời mình và chọn lời Chúa làm kim chỉ nam soi đường là người sống có mục đích, biết rõ con đường mình đang đi tới, mục đích mình muốn đạt. Từ đó mọi suy nghĩ hành động đều qui hướng về mục đích cao cả đó. Đây chính là trường hợp của vua Salomon trong bài đọc một hôm nay.

Cựu ước ghi lại ơn khôn ngoan của vua Salomon khi ông biết ông non dại, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, không thể làm tròn trách nhiệm Chúa trao nên ông xin.

Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn…. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ… 1V3,7-12

Chúa ban cho điều Salomon xin và còn cho hơn cả những điều ông không biết để xin. Lý do nào Chúa làm thế? Vì Salomon không xin lợi riêng cho mình nhưng xin ơn làm tròn sứ vụ Chúa trao. Vì thế Chúa ban cho dư đầy. Xin như thế là xin Chúa làm chủ đời mình nên Chúa ban cho Solomon nhiều sự lành. Ngài cho ông trở nên công chính và khôn ngoan. Người lãnh đạo khôn ngoan và công chính mang lợi ích cho muôn dân, làm sáng Danh Thánh Chúa.

Muốn trở nên giầu có phải biết học cho đi. Muốn trở nên khôn ngoan phải biết học khôn từ lời Chúa.

[Mục Lục]

Bài 19. Kho báu ẩn dấu và viên ngọc quý
Lm. Pietro Nguyễn Hương

Sống là một hành trình tìm kiếm và chọn lựa liên lỉ. Tìm kiếm chân thiện mỹ, chọn lựa tốt xấu, lành dữ.

Trong tác phẩm nổi tiếng “la Pensées”, Pascal (triết gia Công Giáo Pháp) cho rằng có ba thứ bậc của sự cao trọng. Bậc thứ nhất liên quan đến vật chất hay con người: nó đề cao những ai giàu có, những ai có sức khoẻ hay dung nhan xinh đẹp. Bậc này có một giá trị không thể xem thường, nhưng nó chỉ ở cấp thứ nhất.

Bậc thứ hai cao trọng hơn là bậc của tài năng siêu việt mà các triết gia, khoa học gia, nghệ sĩ và các nhà thơ nắm giữ. Đây là một bậc có một phẩm chất khác. Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, không thêm không bớt điều gì từ những thiên tài. Trước họ chúng ta phải ngưỡng mộ, nhưng nó chưa phải là bậc cao nhất.

Còn có một thứ bậc cao hơn, đó là thứ bậc của tình yêu, của lòng tốt mà Pascal gọi đó là thứ bậc của thánh thiện và ơn sủng. Gounod cho rằng: “Một giọt thánh thiện đáng giá hơn một đại dương tài năng”. Đẹp hay xấu, học thức hay dốt nát không thêm hay bớt đi điều gì khỏi một người thánh thiện, một vị thánh. Sự cao cả của ngài thuộc về một thứ bậc khác, vượt trên cả hai bậc kia. Điều này rất phù hợp với quan niệm của người Việt Nam: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du, Truyện Kiều).

Có thể nói rằng đức tin Kitô giáo thuộc về bậc thứ ba này, bởi lẽ cốt lõi của Đạo chúng ta là Tình Yêu, và mời gọi đạt tới sự Thánh Thiện. Hay nói đúng hơn, những ai đã được rửa tội, là kitô hữu đều được mời gọi sống cho Tình Yêu và sự Thánh Thiện này, ngay trong chính đời sống của mình.

Lời Chúa hôm nay cũng nói tới sự cao cả và lời mời gọi này: Vua Salômon trong bài đọc I không xin Chúa cho được giàu có, sống lâu, nhưng ông chỉ xin cho tâm hồn khôn ngoan để lãnh đạo dân Chúa và phân biệt lành dữ. Điều ông xin đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông được khôn ngoan và có tất cả.

Dụ ngôn “kho báu giấu ở thửa ruộng” và “viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, mà không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báo” và ‘viên ngọc quý” ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.

Khủng hoảng lớn nhất của con người hôm nay là khủng hoảng về các giá trị, các bậc sống bị đảo lộn. Tiền bạc lên ngôi, trở thành tiên, thành phật; sự thánh thiện và tình yêu trở thành một thứ secondhand, “hàng ế”! Thiên Chúa bị loại ra khỏi đời sống. Đức Giáo Hoàng Benedetto XVI nói rất chính xác rằng: “Trong lòng nhiều người sống trong xã hội chúng ta, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi sợ không tên, và một cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng” (Bài giảng ở Sydney 2008). Nếu cuộc sống chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không được tìm kiếm và quy chiếu như sự thiện tuyệt đối, như là mục đích tối hậu của đời người, thì chúng ta sẽ bị vong thân, cuộc sống đánh mất nền tảng căn bản.

Như hai người trong Tin Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong cuộc đời mình. Trong gia đình, chúng ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền bạc của cải. Các bạn trẻ đừng bao giờ nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm kiếm, để hưởng thụ. Có một sự bận tâm cao hơn đó là “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời”; có những giá trị còn lơn lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của đời ta. Amen!

[Mục Lục]

Bài 20. Hạnh phúc trong tầm tay
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng khi thư viện lớn nhất tại thành phố Alexandre bên Ai Cập bị đốt cháy, chỉ có một quyển sách còn nguyên vẹn. Nhìn bên ngoài thì đây chỉ là một quyển sách tầm thường như bao quyển sách khác. Nhưng có lẽ đây là quyển sách quí giá nhất thế giới, vì bìa lưng của nó chứa đựng bí mật về một viên đá quí. Viên đá này chạm đến đâu thì tất cả đều biến thành vàng. Hàng chữ viết trên bìa lưng của quyển sách cho biết thêm viên đá quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên đá khác tại bờ Bắc Hải. Về hình thù nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có điều là trong khi những viên đá khác sờ vào thấy lạnh, thì viên đá quí này lại nóng. Một nông dân nghèo đã tình cờ mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta bán tất cả tài sản và lên đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều bên bờ biển Bắc Hải và ngày ngày ông nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá nào là ông ném xuống biển. Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp đi lặp lại cùng một động tác ấy. Nhặt một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa tìm được viên đá nóng. Viên đá nào cũng lạnh cả. Ông lại tiếp tục công việc ấy một năm nữa, nhưng vẫn chưa tìm được viên đá quí, thế rồi một buổi chiều nọ, bàn tay của ông bỗng rực nóng lên khi chạm đến viên đá. Nhưng thói quen nhặt đá để ném xuống biển đã trở thành một thứ bản năng, không chống lại nỗi nữa. Vì thế người nông dân cũng ném luôn viên đá ấy xuống biển. Ông đã để kho tàng tuột khỏi tay ông.

Có một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi mình sống để làm gì? Cuộc sống này có ý nghĩa gì với tôi? Có lẽ câu trả lời hoàn chỉnh nhất đó là sống để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là gia tài quý báu nhất mà cả nhân loại này hằng khao khát tìm kiếm hằng ngày, hằng giờ. Cả nhân loại hằng đổ xô đi tìm. Có những người mất cả đời để đi tìm hạnh phúc nhưng vẫn không bao giờ toại nguyện. Có những người dám đánh mất cả tiền tài, công sức để đạt cho bằng được hạnh phúc mình mong đợi, thế rồi lại thất vọng chán chường và lại tiếp tục tìm kiếm.

Hạnh phúc chính là viên ngọc quý, là gia tài mà bằng mọi giá mình phải đạt cho bằng được, mình phải bằng mọi cách để bảo vệ, để gìn giữ nó mãi trong cuộc đời của mình.

Nhưng kho tàng hạnh phúc đó ở đâu? Làm sao ta có thể đạt được nó? Có người cho rằng hạnh phúc chỉ có khi người ta có lắm của nhiều tiền. Có người cho rằng hạnh phúc ở trong công danh, sự nghiệp. Điều đó đúng không sai. Nhưng nếu chỉ vì tiền, vì tình, vì công danh sự nghiệp mình bán rẻ lương tâm, đánh mất phẩm giá làm người liệu rằng ta có hạnh phúc hay không? Nếu phải chọn lựa giũa hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu ta sẽ chọn điều gì?

Có những người vì chỉ muốn có tiền nên gian tham, trộm cắp, lừa đảo. Họ có niềm vui khi có được đồng tiền bất chính nhưng liệu rằng niềm vui đó sẽ tồn tại bao lâu?

Có những người vì tình mà ăn ở bất chính, vụng trộm, chồng chung vợ chạ, liệu rằng có còn xứng đáng vói nhân phẩm của một con người hay không?

Có những người vì địa vị mà chà đạp, hạ bệ, vùi dập người khác liệu rằng họ có được một tâm hồn an bình hay đầy lo âu sợ hãi?

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa. Chọn lựa giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời. Chọn lựa trần gian mau qua hay nước trời vĩnh cửu. Chọn lựa một cách dứt khoát không nửa chừng. Vì thà mất một mắt, một tay, một chân mà vào nước trời còn hơn là nguyên vẹn mà phải sa hỏa ngục. Chọn lựa phải có sự đánh đổi. Đánh đổi cả gia tài, những gì mình có để mua lấy nước trời. Như trường hợp người thanh niên giầu có muốn có hạnh phúc, Chúa đã bảo anh: “Hãy bán hết của cải mà cho người nghèo, rồi đi theo tôi”. Chọn lựa phải có sự thiệt hơn như Phêrô đã từng hỏi: “Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con sẽ được gì?”. Chọn lựa phải có sự liều lĩnh, một ăn cả hai ngã về không. Đem bán hết gia tài để mua thuở ruộng, để mua viên ngọc. Tóm lại, nếu phải đánh đổi vì hạnh phúc nước trời mà mình phải nghèo đói, mất công ăn việc làm, mất cả địa vị xã hội mình vẫn phải đánh đổi. Vì suy cho cùng tiền tài danh vọng chỉ là của đồng lần, nay người mai ta. Nó không dành riêng cho mình, và mình cũng không chiếm hữu nó trọn đời.

Thế nên, người Kitô hữu phải có sự khôn ngoan như Salômôn. Ông không xin cho giầu có hay có đủ tài năng để đánh bại quân thù. Ông xin sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa. Không phải là khôn ngoan thế gian. Khôn ngoan biết chọn lựa theo thánh ý Chúa. Khôn ngoan biết phân định đâu là thiện đâu là ác. Khôn ngoan để hành động theo đúng với luân thường đạo lý, đúng với lẽ phải, đúng với nhân phẩm một con người là “nhân linh hơn vạn vật”. Một con người có lý trí, ý chí, tự do chứ không phải hành động theo bản năng và thiếu trách nhiệm về hành vi của mình.

Xin Chúa cho chúng ta sự khôn ngoan để chúng ta đi tìm Nước Trời. Vì Nước trời là một kho tàng quý giá, chúng ta phải bằng mọi cách để đổi lấy cho bằng được. Vì nước trời là viên ngọc quý, chúng ta phải trân trọng và bằng mọi giá gìn giữ và bảo vệ. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chọn lựa gia tài vĩnh cửu Nước Trời hơn là những của cải trần gian mau qua. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào được ích gì? Amen.

[Mục Lục]

Bài 21. KHÔN NGOAN TÌM NƯỚC TRỜI
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Vua Salomon nổi tiếng là vị vua khôn ngoan sáng suốt. Ông đã xử những vụ án rất khó khăn một cách khéo léo không khác gì Bao Công. Bà hoàng hậu Saba ở mãi tận phương nam cũng phải đến nghe sự khôn ngoan của ông. Nhưng khôn ngoan nhất là khi được Chúa cho chọn lựa, ông đã không xin được trường thọ hay được giàu sang, mà chỉ xin được ơn khôn ngoan. Lời cầu xin của ông rất đẹp lòng Chúa. Nên Chúa đã khen ngợi và ban cho ông mọi điều mong muốn. Chúa muốn tôi bắt chước vua Salomon, biết xin ơn khôn ngoan và biết khôn ngoan trong những lựa chọn. Nhất là biết khôn ngoan lựa chọn Nước Trời như những người trong bài Tin Mừng hôm nay.

Những người trong bài Tin Mừng hôm nay khôn ngoan vì thao thức đi tìm. Sự thao thức đi tìm được thấy trong thái độ bôn ba đây đó, khảo sát đất đai. Chắc phải đào bới nhiều mới thấy kho tàng chôn giấu trong ruộng. Sự thao thức đi tìm cũng thấy trong việc ra khơi thả lưới. Vất vả chài lưới rồi còn phải lựa chọn. Dù vất vả, họ quyết tìm cho ra Nước Trời.

Họ khôn ngoan vì biết phân định. Đời sống đem đến cho ta đủ mọi loại giá trị thượng vàng hạ cám, như chiếc lưới đánh bắt đủ mọi loại tôm cá. Giữa những giá trị ấy ta phải biết phân định. Lựa chọn những giá trị cao quý, tốt đẹp. Biết chọn lựa cá tốt, vứt bỏ cá xấu. Biết giá trị của viên ngọc dù nó còn đang nằm giữa khối đá sù sì dơ bẩn. Biết giá trị của kho tàng dù nó còn đang bị chôn giấu dưới lòng đất sâu. Biết giá trị của Nước Trời dù Nước Trời chưa tỏ hiện rõ ràng trên thế gian.

Họ khôn ngoan vì dám dấn thân. Khi đã biết được giá trị Nước Trời, họ dấn thân theo đuổi đến cùng. Dấn thân trọn vẹn nên bán tất cả những gì mình có để đổi lấy kho tàng, viên ngọc quý. Dấn thân quyết liệt vì bán hết nhà cửa rồi thì không thể quay về chốn cũ, chỉ còn gắn bó với quê hương mới mà thôi. Dấn thân tuyệt đối, bỏ hết tất cả chỉ vì một viên ngọc. Dấn thân như thế là thái độ của tình yêu, sự say mê, sự khao khát mãnh liệt. Đó chính là thái độ phải có khi đi tìm Nước Trời.

Họ khôn ngoan vì biết từ bỏ. Bán tất cả những gì mình có là một từ bỏ lớn lao. Dứt lìa những gì mình gắn bó còn đau đớn hơn nữa. Bỏ một nơi yên thân chắc chắn để dấn thân vào một tương lai bấp bênh thì thật là phiêu lưu đến tận cùng. Nhưng không có cách nào khác. Phải bán tất cả mới đủ sức mua viên ngọc Nước Trời. Phải đầu tư trọn vẹn con người với tất cả tài năng trí tuệ, sức lực, thời giờ mới mong chiếm đoạt được Nước Trời. Luyến tiếc một chút là bất thành. Chần chừ một chút là hỏng việc. Nấn ná một chút là bị lỡ cơ hội.

Họ từ bỏ một cách nhẹ nhàng thanh thoát. Nên từ bỏ rồi họ cảm thấy vui tươi. Họ từ bỏ một cách mau mắn vì họ đã dứt khoát với những gì xưa cũ. Lòng trí của họ chỉ gắn bó tha thiết với kho tàng mới tìm thấy.

Đó là những thái độ khôn ngoan đáng cho ta noi theo trên con đường đi tìm Nước Trời. Biết thao thức đi tìm. Biết phân định giá trị. Biết mau mắn từ bỏ. Biết hăng hái dấn thân đến cùng.

Lạy Chúa, xin ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn có thực sự coi Nước Trời là kho tàng quý giá nhất không?
2) Bạn đã thực sự bán hết mọi sự để mua Nước Trời chưa? Còn những gì bạn còn luyến tiếc chưa muốn bán?
3) Bạn nghĩ thế nào về sự khôn ngoan. Bạn muốn trở thành người khôn ngoan thực sự không
?

[Mục Lục]

Bài 22. Kho báu và ngọc quý
R. Veritas

Một em học sinh thuộc câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng, rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, chiều về em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi nào sinh hoạt đó không cản trở chương trình học và luyện tập bơi lội của em.

Có người tò mò hỏi, tại sao em dám làm như vậy?

Em trả lời cách xác quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.

Trên đời có nhiều người dám hy sinh tất cả cho mục đích, hay lý tưởng mà họ đã chọn. Phần chúng ta thì sao? Nước Trời, ơn cứu rỗi đã được Chúa ban cho chúng ta, chúng ta những người Kitô hữu hôm nay có hiểu, đánh giá và chấp nhận như là mục đích cuối cùng của chúng ta hay chưa? Chúng ta có chấp nhận hy sinh những điều khác để chiếm đoạt được Nước Thiên Chúa hay không?

Người Kitô hữu theo Chúa có một thái độ dấn thân, quyết chọn Chúa và những gì thuộc về Ngài như là mục tiêu duy nhất của lòng trí, của mọi hành động và lời nói của mình, sao cho hành động và lời nói của mình được hòa hợp với những gì mà Chúa dạy. Nhiều khi con cái thế gian dấn thân hy sinh cho những lợi lộc vật chất, cho những mục đích trần thế như đoạt giải thể thao trong thế vận hội, đạt được một địa vị xã hội nào đó, v.v… nhiều hơn là chúng ta thực hiện giới răn của Chúa.

Thánh Phaolô tông đồ nơi thư thứ nhất Corintô đã nói như sau: “Mọi lực sĩ sống trong thời gian luyện tập, chấp nhận theo một kỷ luật nghiêm khắc đến độ để đạt tới phần thưởng có thể bị hư nát. Nhưng chúng ta thì khác, chúng ta luyện tập những điều không hư nát” (1Cr 9,25).

Vào giây phút cuối cùng cuộc đời, khi chúng ta đối diện với cái chết của chính mình thì chỉ cần một điều cần thiết mà thôi, đó không phải là chúng ta có lãnh được nhiều giải thưởng này nọ hay không, có đạt được hạt ngọc này, hạt ngọc khác hay không, nhưng điều quan trọng là chúng ta đã trở nên như thế nào để đạt được viên ngọc quí hay kho tàng là chính Nước Chúa, là chính ân sủng Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cần xác tín điều này, và khi đã xác tín thì sẽ được biểu lộ trong đời sống rằng, trên đời này không có gì cao quí đối với chúng ta hơn là Nước Chúa và chúng ta càng phải cố gắng làm sao để đạt được Nước này.

Nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Thánh Phaolô đã ý thức điều đó trong chính kinh nghiệm sống của ngài khi ngài tâm sự với các tín hữu Corintô như sau: “Kho tàng ấy, kho tàng Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta, chúng ta lại chứa trong những bình sành dễ vỡ, để chứng tỏ quyền năng phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng ta. Chúng ta bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp, hoang mang nhưng không bị tuyệt vọng, bị bạc đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta”.

Thiên Chúa ban cho chúng ta kho tàng ân sủng của Ngài, và để chiếm đoạt được kho tàng ấy, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, chống lại những tội lỗi, chống lại với tinh thần trần tục hóa của thế gian để được trung thành với ơn Chúa. Đây là điều mà thánh Phaolô gọi là: “Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận mỏng giòn của chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta”.

Để sống trung thành với kho tàng đức tin, với kho tàng ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta trong thế giới có nhiều cám dỗ này, chúng ta cần phải cố gắng hy sinh, cần phải cầu xin ơn Chúa ban cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn trung thành với kho tàng đức tin, kho tàng ân sủng mà làm cho kho tàng đức tin đó, kho tàng ân sủng đó phát triển đến mức độ hoàn hảo nơi mỗi người chúng ta. Amen.

[Mục Lục]

Bài 23. LƯỚI CÁ HAY LƯỚI NGƯỜI?
JM. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XVII/TN-A – Mt 13, 44-52) tiếp tục trình thuật những dụ ngôn Đức Giê-su Ki-tô dạy các môn đệ về Nước Trời. Đó là 2 dụ ngôn: “Kho báu và ngọc quý” và “Chiếc lưới”. Suy niệm dụ ngôn “Chiếc lưới” khiến người ta không thể không nghĩ tới lần Đức Giê-su thu nhận 4 môn đệ đầu tiên: “Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.

Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5, 4-8)

Những người đánh cá (trong đó có Thánh Phê-rô) bằng những dụng cụ chài lưới thường dùng và những kinh nghiệm từng trải, đã “… vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”, nhưng khi “… vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”, cũng vẫn những dụng cụ và cách thức ấy, thì kết quả đã vượt quá sức tưởng tượng (“họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm”). Sở dĩ gọi đó là một biến cố vì trong cùng một sự kiện, cũng một cách thức thực hiện, mà kết quả khác hẳn nhau, nhưng nhất là vì sự kiện đó xảy ra đã làm thay đổi hẳn cách nhìn (quan điểm) của thánh Phê-rô và đám đông về Đức Giê-su Ki-tô, đến nỗi mà thánh nhân phải “sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Và còn hơn thế nữa, vì qua biến cố này, Đức Giê-su còn muốn biến những kẻ chài lưới bình thường ấy thành những người không còn phải lưới cá nữa mà là “lưới người” như Thánh Mát-thêu trình thuật: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 19).

Lưới người? Đức Ki-tô đã dùng hình ảnh sống động “lưới cá” trong cuộc mưu sinh hàng ngày của các môn đệ, để nói về một công việc nghe có vẻ trừu tượng: “lưới người” (thu phục nhân tâm). Người muốn các môn đệ hiểu được Người muốn nói về chính sứ vụ của Người – sứ vụ mà Người muốn trao cho các môn đệ thực thi: “rao giảng Tin Mừng, mở mang Nước Chúa”. Công việc nghe có vẻ rất trừu tượng ấy lại được thực thi bằng những hành vi cụ thể: lời nói, việc làm, thậm chí bằng cả cuộc sống. Các môn đệ đã quá rõ về nghề chài lưới không chỉ cần đến các công cụ (ghe thuyền, chài lưới) cho thật tốt, mà còn cần – rất cần – phải biết chọn đúng thời điểm theo thời vụ ở mỗi địa điểm (vd: sáng thì nên thả lưới chỗ nào, trưa, chiều, tối thì nên thả lưới chỗ nào có nhiều cá; rồi còn phải biết tính vào mùa nào trong năm, vào thời điểm nào trong tháng … thì nên thả lưới ở đâu). Ngoài ra, còn cần đến những phương pháp, kỹ năng chài lưới sao cho có hiệu quả tối ưu nữa. Qua một phép lạ và chỉ trong một câu ngắn gọn, Đức Ki-tô đã làm cho các môn đệ hiểu và tin vào Người Thầy của mình sẽ giúp mình trở nên một người tinh thông và đủ năng lực thực hiện một hành vi trừu tượng “lưới người”. Như vậy thì sự kiện ấy chẳng phải là một biến cố đó sao?

Trong cuộc sống của con người, thường hay có những biến cố xảy ra. Xét theo từ nguyên thì biến cố chỉ có nghĩa là một tai nạn xảy ra làm thay đổi hình dạng (biến: mất đi, không còn hình dạng nữa; cố: sự vịêc). Như vậy, biến cố mang ý nghĩa thay đổi sắc thái + hình dạng + tố chất của sự kiện, sự vật, bao hàm cả tích cực lẫn tiêu cực. Tuỳ theo mức độ lớn nhỏ, những biến cố ấy có thể chỉ là một lối rẽ, một bước ngoặt làm thay đổi cuộc sống thường nhật. Lớn rộng hơn, sâu xa hơn, có thể làm thay đổi cả nếp suy nghĩ (tư tưởng), cách nhìn (quan điểm) về vũ trụ và cuộc sống của con người (“vũ trụ quan”, “nhân sinh quan”). Về mặt xã hội, có những biến cố làm nảy sinh những trào lưu hoặc làm thay đổi cả hệ tư tưởng, thậm chí có những biến cố làm đảo lộn cả trật tự xã hội. Về mặt tôn giáo cũng vậy, chỉ nói riêng về Ki-tô Giáo, từ khi Giáo Hội được thành lập cho tới ngày nay cũng có không biết bao nhiêu biến cố đã xảy ra: song song với những cải cách, canh tân từ những Công Đồng Chung làm cho Giáo Hội phát triển, đổi mới, thích nghi với thời đại, thì cũng có những cuộc ly giáo, đại ly giáo, những cuộc thập tự chinh… làm hoen ố tính chất hiệp thông, bác ái của Giáo Hội.

Với từng cá thể con người cũng không ra ngoài quy luật chung, đều có những biến cố – không nhiều thì ít – tác động đến đời sống (cả tinh thần lẫn vật chất). Khi nói về Thánh Phao-lô, vị Tông đồ kiệt xuất của Đức Ki-tô, chắc chắn ai cũng nghĩ rằng phải có một biến cố trọng đại xảy ra mới khiến ngài từ một kẻ chuyên đi lùng giết những người “theo Giê-su”, lại trở nên một người “theo Giê-su đến cùng”, thậm chí còn sẵn sàng chết cho mục đích mình theo đuổi. Nhưng không lẽ chỉ có một thánh Phao-lô là được biến cố Damas thức tỉnh và hoán cải con người của mình? Không, còn và còn rất nhiều, kể cả đến thời đại hiện nay, cũng vẫn có những biến cố xảy đến để thức tỉnh, đổi mới con người, canh tân Giáo Hội. Chỉ có điều, con người có nhận ra được biến cố đó hay không và có thực lòng hoán cải tâm hồn hay không mà thôi.

Trở lại biến cố “lưới người như lưới cá” xảy ra với 4 môn đệ đầu tiên của Đức Ki-tô (Lc 5, 1-11). Người bộc lộ cá tính rõ nét nhất trong 4 vị Tông đồ tiên khởi chính là “ông phổi bò” Si-mon Phê-rô. Gọi ngài là ông phổi bò vì ngài là người có gì, nghĩ gì, là nói thẳng ra, không quanh co, lắt léo. Ngoài biệt hiệu “phổi bò”, dân gian Việt Nam còn có những biệt hiệu khác dành cho những người thẳng thắn bộc trực, nghe rất ấn tượng: thẳng ruột ngựa, thẳng mực tàu. Cái cá tính bộc trực của thánh Phê-rô đã cho biết thánh nhân gặp nhiều biến cố khi đi theo Thầy Giê-su, tích cực có, tiêu cực có. Về mặt tích cực, thì ngay biến cố đầu tiên này đã làm cho thánh Phê-rô thức tỉnh, nhận ra Người Thầy của mình chính là Chúa – là Thiên Chúa – của mình, khiến ngài đã đổi cả cách xưng hô và thể hiện một động tác quy phục tột đỉnh (từ “Nhưng, vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”, đến “sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” – ibid).

Về mặt tiêu cực thì có thể kể 2 biến cố nổi bật: đó là biến cố “Đức Ki-tô đi trên mặt biển” và biến cố “Phê-rô chối Chúa”. Nơi biến cố “Đức Ki-tô đi trên mặt biển”, xét về mặt chủ quan của chính chủ thể Phê-rô, thì thấy rõ ràng ngài đã thể hiện sự tiêu cực: vẫn chưa thật sự tin rằng Thầy mình là Thiên Chúa (thánh nhân thấy Người Thầy bằng xương bằng thịt của minh đi trên mặt biển lại nghĩ là ma, vì cho chỉ có ma mới đi được như thế). Đến như biến cố “chối Chúa 3 lần trong một đêm” thì rõ ràng đức tin của Phê-rô vẫn bị chao đảo (sợ cả đứa tớ gái nhà Cai-pha). Tuy nhiên, nếu xét về mặt khách quan (tác động từ bên ngoài vào chủ thể) thì chính những biến cố ấy lại mang tính tích cực rõ rệt, bởi sau biến cố này, thì con người thánh Phê-rô đã thay đổi hẳn. Sau cái hành động tiêu cực ấy, thì “Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. Ông Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Mt 26, 74-75). Và kể từ biến cố ấy, đặc biệt nhất là ở biến cố “Ngày lễ Ngũ Tuần” (Cv 2, 1-13) sau Phục Sinh, được ơn Thánh Thần soi sáng và tác động mãnh liệt, thánh Phê-rô đã trở nên một Tông đồ trung kiên tuyệt đối, dám đem cả sinh mạng của mình ra để làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô.

Đến ngày nay, thì không chỉ có thánh Phê-rô, thánh Phao-lô và các vị Tông đồ tiên khởi của Giáo Hội sơ khai, mà là toàn thể Giáo Hội, tất cả mọi Ki-tô hữu đều được Đức Ki-tô trao phó sứ vụ “lưới người”, tức là “… từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” (Lc 5, 10). Thu phục người ta, thu phục nhân tâm thì đúng là một công việc trừu tượng (“lưới người”), nhưng chính công việc trừu tượng ấy lại được thực thi, thể hiện bằng lời nói, hành động, việc làm cụ thể trong cuộc sống hàng ngày (“như lưới cá”). Tất nhiên, với một con người phàm phu tục tử có đầy đủ thất tình lục dục, thì không thể “tự lực cánh sinh, tự lực hành động” được, mà phải cậy nhờ vào những hồng ân, những đặc sủng Thiên Chúa ban tặng thông qua những biến cố trong cuộc đời.

Những thử thách trăm chiều mà con người phải đối mặt có thể sẽ làm cho con người tiêu cực càng trở nên tiêu cực hơn, nhưng với những con người sẵn sàng ngẩng cao đầu đối diện với nó – bằng một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, Đấng Quan phòng, Người đã gửi những thử thách ấy để “thử lửa” họ – thì chắc chắn họ sẽ coi những lời dạy của thánh Gia-cô-bê Tông đồ đúng là khuôn vàng thước ngọc để sống, để củng cố đức tin: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì”.(Gc 1, 2-4).

Trước mỗi biến cố thì lời khuyên luôn luôn và mãi mãi vẫn là: “Đừng ngồi nguyền rủa bóng tối, mà hãy thắp lên một ngọn đèn.” Cũng đừng ngồi há miệng chờ sung rụng, mà hãy trèo lên cây hoặc dùng những phương tiện (câu liêm, vợt…) để hái cho được những quả sung chín mọng. Vả lại, càng không nên ngồi chờ những biến cố như một phép lạ đến biến đổi con người của mình, mà hãy thức tỉnh, hãy tìm kiếm, và khi được gặp thì hãy hành động. Vâng, nếu đã tin có Đấng Toàn Năng Chí Công Vô Tư hằng luôn quan tâm đến bạn, hằng thương xót bạn, thì xin bạn hãy hành động. Ấy cũng bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26). Hãy sẵn sàng đón nhận sứ vụ “lưới người”, với một tư thế chuẩn bị kỹ càng ghe thuyền, chài lưới, trau giồi kỹ năng săn bắt, cùng với sự tỉnh thức học tập rút đúc kinh nghiệm, và cuối cùng, HÃY HÀNH ĐỘNG (ra khơi, thả lưới)! Vâng, chính những “dân chài”, những “người thợ làm vườn nho” chỉ có thể gặt hái được kết quả mỹ mãn, khi biết “công dục thiện kỳ sự, tất tiên lợi kỳ khí” (người thợ muốn hoàn thành tốt sự việc, trước hết phải biết trau giồi khí cụ cho thật tốt – Khổng Tử – “Luận Ngữ”).

Một hệ luận tất yếu dành cho những kẻ được ơn gọi đi “lưới người như lưới cá”, đó là: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Bài đọc 2 – Rm 8, 30). Như vậy thì còn chần chờ gì nữa mà không tin vào chính mình (tự tin) và xăn tay áo lên (hành động) mà thưa với Thầy Chí Thánh: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Xin được chia sẻ cùng những người bạn đồng hành. Amen.

[Mục Lục]

Bài 24. Mạo hiểm chiếm hữu kho báu vô tận
AM Trần Bình An

Theo lời kể của ông Trần Văn Tiệp, ngay từ những năm 1957, ông đã có những thông tin chính xác về “kho vàng” này. “Nhưng trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, tôi phải bí mật nguồn thông tin.”

Theo hồ sơ của ông Tiệp cung cấp cho Báo Thanh Niên, cuối Thế Chiến thứ hai (khoảng năm 1943), trên vịnh Cà Ná (giáp ranh tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận hiện nay), tướng Yamashita của Nhật sau khi đầu hàng quân đồng minh đã đưa một hạm đội gồm 84 tàu chiến chở đầy vàng đến đây. Quân đội Nhật đã chôn giấu khoảng 4.000 tấn vàng tại một hòn núi sát với vùng biển này. Tuy nhiên, sau đó không quân của quân đồng minh đã đánh chìm 66 tàu của quân Nhật xuống vịnh Cà Ná, 18 tàu còn lại chạy tứ tán. Có một con tàu mãi đến năm 1945 mới chìm hẳn. Sau Thế chiến thứ hai, nhiều lần người Nhật đã đến VN để tìm tung tích kho vàng cực lớn này nhưng đều thất bại. Ông Tiệp khẳng định: “Sở dĩ quân đội Nhật chôn kho vàng này gần biển là vì thuận lợi giao thông đường biển, đường bộ và đường sắt. Hơn nữa, lại gần với một kho vàng khác của vua Chăm ngày xưa để lại nơi này.”

Ông Tiệp và các cộng sự đã trưng ra nhiều vật chứng quan trọng trình UBND tỉnh, mà ông cụ cho rằng đã thu được từ những cuộc thăm dò kho vàng tại núi Tàu. Đó là một thanh gươm và một vỏ bao gươm của Nhật đã cũ; một đồng tiền 10.000 yen; một ống điếu bằng kim loại đã vỡ một phần; hai logo Hắc Long bằng kim loại và một lá đề bằng đá… “Những cổ vật này là chứng cứ không thể bàn cãi về việc có sự hiện diện của kho vàng ở núi Tàu,” ông Tiệp khẳng định. Để chứng minh, lần đầu tiên ông Tiệp trưng ra tấm bản đồ vị trí “kho vàng núi Tàu,” được ông vẽ lại khá tỉ mỉ. Theo ông Tiệp, tấm bản đồ này chỉ ông và người có trách nhiệm cao nhất của tỉnh mới được tiếp cận vì “yếu tố bí mật” và vì lý do “an ninh” nên không ai được phép biết trừ khi được ông cho phép.

Chỉ với những thông tin mỏng manh, nhưng suốt hơn 50 năm qua ông đã đeo đuổi về cái gọi là“kho vàng núi Tàu.” Cả cuộc đời ông hầu như chỉ có một việc, đó là khai thác bằng được kho vàng này, dù đến nay, đã ngót trăm tuổi, đã bỏ ra hàng trăm cây vàng cho việc tìm kiếm. Nhưng thất bại không làm ông nản chí. Ông bảo đời ông chưa tìm thấy thì đời con ông sẽ tiếp tục đi tìm. Niềm tin “kho vàng núi Tàu” với ông không bao giờ tắt! (Thanh Niên)

Lòng tin tưởng vững bền của ông Trần Văn Tiệp có thể gợi ý cho Kitô hữu suy gẫm sâu sắc hơn về kho báu Nước Trời. Trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu ví Nước Trời như kho báu giấu kỹ, hay như viên ngọc quý hiếm hoi độc nhất vô nhị, mà ai phát hiện sẽ khôn ngoan bán ngay mọi thứ để cấp thời mua lấy, rồi còn phải chiến đấu liên tục để có thể lưu giữ.

Khôn ngoan

Nhờ hồng ân mà Kitô hữu khám phá ra được kho tàng vô giá mà cứ tưởng như là cờ. Đó chính là Nước Trời, mà Đức Giêsu vừa giới thiệu, vừa trao ban qua Lời Chúa và Thánh Thể nhiệm mầu. Khi tín hữu tìm thấy kho báu độc nhất vô nhị này, hoặc viên ngọc quý giá vô song, thì Đức Chúa Thánh Thần luôn ban ơn khôn ngoan, ân sủng đầu tiên trong Bảy Ơn của Ngài, để tín hữu có thể tự do lựa chọn, cũng như cân nhắc quyết định chiếm hữu hay từ chối.

Cũng như các Thánh Tông đổ tiên khởi, Thánh Phaolô cũng khôn ngoan chiếm hữu Nước Trời, mặc dầu trước đó ngài đã hăng say truy sát những ai tin theo Đức Giêsu. Nhờ ơn khôn ngoan, thánh Phaolô, như Vua Salômôn ngày xưa, đã biết lắng nghe và biệt phân phải trái, để vứt bỏ đi hết những học thuật uyên bác, những thành tích thánh chiến, để hân hoan làm công dân Nước Trời: “Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người“ (CGKPV, Pl 3, 8-9)

Lm Nguyễn Thế Thuấn dịch câu này khá ấn tượng: “…Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô, và được thuộc về Ngài…” Còn Lm An Sơn Vị dựa theo bản Kinh Thánh TOB, dịch thật sát ý nghĩa hơn nữa: “Vì Người, tôi đã đánh mất đi tất cả, và tôi coi tất cả như đồ cặn bã, để được lời chính Đức Kitô và được gặp thấy tôi nơi Người.”

Như thế, tất cả của cải vật chất lẫn tư tưởng cao siêu, quyền hành, chức tước, danh lợi thế gian hoàn toàn chỉ là phù vân, cặn bãphân bón, rác rưởi nếu so với kho báu Nước Trời. Ai thèm dại dột lựa chọn thế gian phù phiếm nhất thời, nếu có một chút khôn ngoan?

Chiến đấu

Tuy nhiên chiếm hữu Nước Trời không hề dễ dàng như mua tấm vé xem trận chung kết bóng đá thế giới vừa qua tại Brasil. Cần có chí khí, nghị lực, can đảm, miệt mài chiến đấu mới chiếm giữ nổi. Chính Đức Giêsu đã chắc nịch khẳng định: “Nước Thiên Chúa phải đương đầu với sức mạnh. Ai mạnh sức thì chiếm được.” (Mt 11, 12).

Thánh Phaolô đã minh chứng qua kinh nghiệm dấn thân vào Nước Trời: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” (2 Tm 4, 7-8)

Có lẽ cuộc chiến cam go và dai dẳng nhất là chiến đấu với chính bản thân, lực cản mạnh bạo và nguy hiểm nhất cho ai muốn chiếm hữu Nước Trời. Vì vậy, bỏ mình là điều kiện tiên quyết chiếm hữu Nước Trời, tiếp đến can trường chấp nhận mọi thách đố khó khăn: ”Ai muốn theo Taphải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”(Lc 9, 23)

Trung kiên

Để chiếm hữu được Nước Trời, Kitô hữu còn phải không ngớt hăng say chiến đấu liên tục, trường kỳ với ba thù hàng ngày, hàng giờ, hàng phút giây, không thể ngưng nghỉ, thỏa hiệp, nên Kitô hữu cần luôn tỉnh thức như năm cô phù dâu khôn ngoan, như người tôi tớ trung thành, thức khuya sẵn sàng và chu đáo đón chờ chủ về. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10, 22)

Thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu thành Côrinhtô dù chịu thử thách, nguy nan, cứ nhất mực kiên trì, trung thành với Nước Chúa, với Ơn Gọi: “Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: Trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích.” (1 Cr 15, 58)

Thánh nhân còn diễn giải minh bạch hơn nữa về sự bền vững, trung thành với kho báu Nước Trời.“Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5, 3-5)

“Giữa những thử thách, con hãy nghĩ gian khổ sánh sao được với Nước Thiên Đàng. Đó là phương pháp của Chúa: “Phước cho ai khó nghèo, ai khóc lóc, ai chịu bắt bớ… Vì Nước Thiên Đàng là của mình vậy.” (Đường Hy Vọng, số 695)

Lạy Chúa Giêsu xin ban Đức Chúa Thánh Thần soi sáng chúng con biết khôn ngoan, để lắng nghe Lời Chúa, biệt phân chánh tà và biết can đảm chọn lựa, chiếm hữu Nước Trời.

Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã khôn ngoan và can đảm “Xin Vâng,” để đón nhận Nước Trời, Đức Giêsu vào lòng Mẹ, nay xin Mẹ cầu bầu và phù hộ chúng con luôn mãi đón Con Mẹ trong đời. Amen.

[Mục Lục]
 

Bài 25. Hãy làm mọi sự để có được Nước Trời
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Một điều vô tiền khoáng hậu như thế được ký kết trong một giấc mộng tại Gabaon giữa một bên là Thiên Chúa, bên kia là Salomon, Thiên Chúa phán : “Đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin … đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi”(1V 3, 12).

Thiên Chúa muốn thông ban người vinh quang đã có tự đời đời cho con người. Vinh quang này được sánh như một kho báu hay một viên ngọc quí trong Tin Mừng hôm nay. Con người luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn chia sẻ vinh quang ấy cho con người. Chính con người cũng không biết mình được dựng nên để vui hưởng vinh quang với Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô thì Thiên Chúa biết chúng ta từ thủa đời đời; khi được tạo thành, Ngài đã gọi tên ta. Theo nghĩa Thánh Kinh, Thiên Chúa biết chúng ta bằng cả tấm lòng, Ngài cưu mang chúng ta trong lòng Ngài, như một người mẹ biết con mình khi cưu mang con trong dạ.

Kế hoạch của Thiên Chúa là Ngài muốn chúng ta trở nên giống hình ảnh của Chúa Giêsu, Con Ngài, vì Chúa Giêsu là hình của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu nói với Philiphê “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chúng ta là một thành viên trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một đại ân huệ Thiên Chúa dành cho chúng ta! Nên Ngài mời gọi chúng ta trở nên hình ảnh của Con Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, nhất là mang trên mình danh hiệu là kitô hữu” Đức Giêsu Kitô: làm sao giàu có như Ngài, mà vì anh em, Ngài đã nên nghèo khó, ngõ hầu anh em được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài” (2Cr 8,9).

Nếu chúng ta nghe và đáp lời Chúa, Thiên Chúa sẽ biện hộ cho chúng ta ; Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên thánh thiện, hoan lạc, hạnh phúc và chiếu tỏa rạng ngời vinh quang Chúa phù hợp với Thiên Chúa. Vì kế hoạch của Thiên Chúa là ” Những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang ” (Rm 8, 29-30).

Trong khi đó, kế hoạch của con người, là đi tìm hạnh phúc. Việc tìm kiếm này đòi phải phân định. Như chiếc lưới kéo lên tất cả các loại cá, nên hạnh phúc cũng có tất cả các loại. Có những thứ hạnh phúc đích thực, có những thứ hạnh phúc rẻ tiền, hão huyền, trống rỗng và giả dối.

Vua Solomon đã xin Chúa ban cho một “tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ” (1V 3, 9).

Để có hạnh phúc thực sự, cần phải cầu xin Chúa như Salomon : cho được ơn làm chủ bản thân, biết phân biệt tốt xấu, chọn lựa điều tốt, bỏ điều xấu. Vì tất cả những gì chúng ta hài lòng chưa hẳn đã là tốt.

Có ơn phân định, để nhận ra tiếng Chúa, làm theo kế hoạch của Chúa, như tác giả Thánh Vịnh đã hát : ” Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ ” (118, 127-128 ). Cần phải có tâm hồn tỉnh thức, sẵn sàng không hời hợt, bốc đồng.

Tỉnh thức, thì dễ vâng phục và lắng nghe Chúa hơn, như thế mới có hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây chính là điều Chúa Giêsu áp dụng cho Nước Trời, khi Người sánh ví như một kho báu hay một thương gia đi tìm ngọc quí.

Nước Trời, là chủ để hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.

Kho tàng hay viên ngọc quí ấy là chính Đức Kitô, là tình yêu của Người. Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa Kitô trước đã. Ôi thật là khó, vì chung quanh chúng ta có quá nhiều ràng buộc, ngăn cản chúng ta gắn bó với Đức Kitô. Chúa Giêsu hỏi chúng ta dành cho Người tình yêu trên hết, chúng ta phải là kitô hữu 100%.

Chúa Giêsu tuyên bố: ” Không ai có thể làm tôi hai chủ » (Mt 6,24). Chỉ có « kho tàng trên trời ” chúng ta mới có thể lựa chọn để gửi gắm lòng mình : ” Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó ” (Mt 6, 20s). Thánh Phaolô nói rõ : ” Nước quê ta là trời cao “ (Ph 3,20).

Để có Đức Kitô, hay để có được Nước Trời cần phải dứt bỏ tất cả như Chúa Giêsu gọi mời : ”Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta ” (Mt 16,24)… Và chỗ khác Người nói : ” Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy đi bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó “, sau cùng Người thêm: ” đoạn hãy đến theo ” (Mt 19,21). Không những thế còn phải phấn đấu, ” giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy “. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta rằng không thể có được Nước Trời, nếu chúng ta không từ bỏ tất cả những gì chúng ta đang có : vinh quang, giầu có, địa vị và tất cả những sự tìm kiếm khác.

Qua dụ ngôn chiếc lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá, (Mt 13, 47) Chúa Giêsu cảnh báo. Đừng có lựa chọn và hành động nửa vời : cần phải hoán cải và tách mình ra khỏi tội lỗi là những thứ ngăn cản chúng ta với Thiên Chúa và Nước Trời.

Chúng ta hãy nài xin Chúa Giêsu, nhờ lời Đức Mẹ, dủ lòng thương xót, để mỗi người chúng ta có nghị lực vứt bỏ tội lỗi, như chúng ta vẫn tuyên xưng vào Đêm Vọng Phục Sinh, và cam kết chọn Chúa Giêsu là lẽ sống của chúng ta. Amen.

[Mục Lục]

Bài 26. KHÔN NGOAN CHỌN LỰA HẠNH PHÚC NƯỚC TRỜI
Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 13, 44-52

2. Ý CHÍNH:

Tin Mừng hôm nay tiếp tục đưa ra ba hình ảnh diễn tả về Nước Trời là dụ ngôn kho báu, ngọc quý và lưới cá: Nước Trời được ví như một người nông dân đi cày ruộng phát hiện ra một kho báu được chôn giấu trong thửa ruộng đang cày, hay Nước Trời được ví như một nhà buôn ngọc khi mua bán ngọc quý, đã phát hiện ra một viên ngọc đẹp rất có giá trị, nên sẵn sàng về nhà bán tất cả gia sản của mình để mua cho được thửa ruộng có kho báu, hay mua viên ngọc quý giá kia. Tiếp đến Nước Trời cũng được ví như công việc thả lưới bắt cá của một ngư dân: Sau khi bắt được một mẻ cá lớn đã ngồi trên bãi cát mà chọn lựa, rồi giữ lại cá tốt trong giỏ và loại bỏ cá xấu ra ngoài. Cũng vậy, đến ngày tận thế chỉ những người lành mới được vào Nước Trời là thiên đàng, còn kẻ dữ sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời. Nhiệm vụ của các môn đệ Đức Giê-su là phải tìm hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm Nước Trời so sánh với Lề luật của Mô-sê để biết sử dụng cả những điều cũ điều mới.

3. CHÚ THÍCH

- C 44: + Nước Trời giống như: Không phải Nước Trời được so sánh với kho tàng châu báu, nhưng so sánh giống như thái độ của người cày ruộng đột nhiên khám phá ra một kho báu có giá trị được chôn giấu trong thửa ruộng ông đang cày thuê. + Kho báu chôn giấu trong ruộng:Dân Do Thái luôn bị các nước lớn chung quanh như Ai Cập, Át-si-ri, Ba-by-lon… xâm lược và cướp bóc tài sản, nên những nhà giàu có vào thời điểm đó thường đào hố chôn giấu vàng bạc châu báu trong thửa ruộng của mình. Đến thời Đức Giê-su, thỉnh thoảng cũng có người đã đào được những kho báu chôn giấu như thế. + Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại:Luật Rô-ma và Luật Do thái cho phép người nào tìm thấy tài sản nằm trong đất của mình thì có quyền sở hữu kho báu ấy. Ở đây người nông dân này không có quyền sở hữu đất ruộng mà anh đang cày thuê, nên khi phát hiện kho báu, anh đã lập tức chôn vùi lại để tránh bị kẻ khác hay biết, rồi tìm cách mua thửa ruộng ấy để có thể công khai chiếm hữu kho báu mà mình mới phát hiện. Ở đây người cày ruộng tình cờ tìm được kho báu cho thấy việc khám phá ra Nước Trời là một ơn Thiên Chúa ban cho không. + Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy: Kho báu kia quý giá đến nỗi đã thôi thúc người này sẵn sàng đánh đổi với mọi của cái mình đang có. Cũng vậy, Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập chính là một kho báu thiêng liêng, mà khi đã nhận biết, người ta sẵn sàng hy sinh từ bỏ mọi sự mình đang có để chiếm hữu được Nước Trời ấy.

Tóm lại: Nước Trời đòi người ta phải đáp trả cách trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh bản thân (x. Mt 16, 24), tình cảm gia đình (x. Mt 10, 37), chấp nhận mất mát cả những bộ phận cơ thể quý giá của mình như mắt, tay, chân (x. Mt 18, 8-9), và ngay cả mạng sống của mình nữa (x. Mt 10,39) để có được Nước Trời làm phần gia nghiệp. Dù hy sinh như vậy nhưng người tín hữu không bị thiệt, mà còn được lợi gấp trăm ở đời này và được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh cửu ở đời sau (x. Mt 19, 28-29).

- C 45-46: + Giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp: Dụ ngôn cũng không nhằm so sánh giá trị của Nước Trời với viên ngọc đẹp, mà nhấn mạnh tới hành động của người thương gia đối với viên ngọc đó. + tìm được một viên ngọc quý: Thời xưa, ngọc trai là một vật được các thợ lặn mò được từ đáy Biển Đỏ, trong vịnh Ba Tư hay Ấn Độ Dương… Các hạt ngọc trai này rất được ưa chuộng thường được dùng để kết thành một tràng chuỗi ngọc đeo nơi cổ. + bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy: Cũng như thái độ của người buôn ngọc sẵn sàng từ bỏ gia sản đang có để mua viên ngọc quý, các tín hữu khi đã gặp được Chúa và hiểu được giá trị của ơn cứu độ, họ sẽ sẵn sàng tận hiến cuộc đời để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân theo thánh ý Chúa.

- C 47-48: + Giống như chuyện chiếc lưới: Nước Trời không giống như lưới cá, nhưng được so sánh với công việc thả lưới bắt cá. + Thả xuống biển: Lưới ám chỉ Hội Thánh, biển tượng trưng cho trần gian, ngư phủ thả lưới là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã sai Con Một của mình là Đức Giê-su xuống trần gian thiết lập Hội Thánh để mời gọi mọi người gia nhập. + Gom được đủ thứ cá: Thu gom mọi thứ cá, trong đó gồm cả cá tốt lẫn cá xấu. Trong Hội Thánh cũng có đủ hạng người tốt xấu lẫn lộn. + Lưới đầy người ta kéo lên bãi: Đến ngày tận thế, mọi kẻ đã chết sẽ được Chúa làm cho sống lại để cùng chịu phán xét chung. + Cá tốt cho vào giỏ: Cá tốt là loại cá được Luật Mô-sê cho phép ăn, gồm “những loài cá có vây và có vẩy” (Đnl 14,9). Trong dụ ngôn này, cá tốt ám chỉ các tín hữu tốt lành thực hành Lời Chúa Giê-su là thực thi bác ái chia sẻ cơm áo và phục vụ cụ thể cho người nghèo đói bệnh tật. Họ sẽ được Chúa thu nhận vào giỏ là thiên đàng. + Cá xấu thì vứt ra ngoài: Cá xấu là loại cá bị Luật Mô-sê cấm ăn gồm “những loài không có vây và không có vẩy” (Đnl 14,10). Ở đây cá xấu ám chỉ những kẻ làm tay sai của ma qủy, không làm theo Lời Chúa biểu lộ thánh ý Thiên Chúa, cố tình làm những điều gian ác, có hại cho tha nhân.

- C 49-50: + Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa…: Đến ngày tận thế, sẽ không còn cảnh vàng thau lẫn lộn: Kẻ dữ sẽ bị loại bỏ khỏi Nước Trời để bị phạt trong lửa hỏa ngục. Ở đó họ sẽ phải khóc lóc vì chịu đau khổ và nghiến răng vì thù hận Thiên Chúa.

- C 51-52: + Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời: Kinh sư là thày dạy Kinh thánh đã được nghe lời Đức Giê-su giảng về mầu nhiệm Nước Trời. + Thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ: Họ sẽ biết sử dụng những điều cũ và mới đã nghe được để ứng dụng vào việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Chính nhờ hiểu biết Luật Mô-sê của Cựu Ước mà các môn đệ Đức Giê-su sẽ nắm bắt được ý nghĩa sâu xa của Nước Trời thời Tân ước để sử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng.

4. CÂU HỎI

1) Ba dụ ngôn về Nước Trời được trình bày trong Tin Mừng hôm nay là những dụ ngôn nào? 2) Ý nghĩa của hai dụ ngôn kho báu và ngọc quý thế nào? 3) Thái độ của người nông dân khi tìm thấy kho báu chôn giấu trong thửa ruộng mình đang cày ra sao? Anh ta làm như vậy nhằm mục đích gì? 4) Cá tốt cá xấu trong dụ ngôn lưới cá ám chỉ những hạng người nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy” (Mt 13, 44).

2. CÂU CHUYỆN:

1) CÂU CHUYỆN CƯỚP CỦA GIẾT NGƯỜI:

Cách đây ít năm báo chí đã đăng tin về một vụ án cướp đoạt tài sản bằng súng AK ngay trên đường phố Huỳnh khương Ninh thuộc Phường Đa Kao, Quận 1. Một chủ tiệm vàng đang chở số vàng mua bán bằng xe du lịch từ tiệm vàng ở chợ Bến Thành về nhà riêng. Khi xe vừa về đến cửa nhà, thì bất ngờ chiếc xe du lịch của ông bị 2 tên cướp, ngồi trên xe Su-zu-ki Sì-po áp sát. Chúng dùng súng AK bắn gục cô người làm khi cô này vừa mở cửa nhà ra để đón xe hơi của chủ vào trong nhà. Sau đó, chúng quay sang bắn ông chủ mấy phát rồi giật túi xách có chứa vàng mà ông ta đang ôm trong người trước khi cùng nhau tẩu thoát mất dạng, để lại hiện trường một khẩu súng AK cưa nòng. Theo lời khai của nạn nhân thì trong túi có tới 250 lượng vàng SJC, 20 ngàn đôla Mỹ và khoảng 20 triệu đồng tiền Việt Nam.

Có những kẻ gian ác luôn tìm kiếm tiền bạc của cải bằng bất cứ giá nào, kể cả giết người cách tàn bạo như những tên cướp nói trên. Chắc chắn bọn chúng sẽ phải chịu hình phạt tương xứng với các việc gian ác đã làm cho người lương thiện ở đời này và đời sau.

2) THÁI ĐỘ NGHE GIẢNG CỦA MỘT BÁC NÔNG DÂN

Một bác nông dân kia đến nhà thờ vào ngày Chúa Nhật để nghe một nhà giảng thuyết lừng danh là GION OÉT-LÂY (John Wesley) giảng về đề tài “Phải sử dụng của cải đời này thế nào?”. Trong phần thứ nhất, nhà giảng thuyết triển khai tư tưởng: “Hãy tìm mọi cách để làm giàu”. Bác nông dân nghe vậy đã tỏ ra phấn khởi. Bác ta thúc nhẹ cùi chỏ vào ông bạn ngồi bên và nói: “Một bài giảng tuyệt vời !”. Sau đó diễn giả khai triển sang điểm thứ hai: “Cần phải sử dụng đồng tiền cách tiết kiệm tối đa”. Bác nông dân lại tiếp tục suýt xoa khen: “Ôi chao ! Tôi chưa bao giờ được nghe một bài giảng nào hay thế này !”. Nhưng khi diễn giả sang điểm thứ ba: “Hãy chia sẻ tối đa của cải mình kiếm được cho người nghèo” thì bác ta bị cụt hứng, rồi bác âm thầm bỏ ra xe để về nhà với bộ mặt buồn bã thất vọng, vì bài giảng cuối cùng đã không phù hợp với lối sống của bác ta.

Con người thường hành động do động lực lợi lộc vật chất thúc bách: Bác nông dân trong dụ ngôn đã bán tất cả gia sản của mình để mua bằng được thửa ruộng có chôn giấu kho tàng quý giá. Ông thương gia cũng sẵn sàng bán đi tài sản để mua cho được viên ngọc quý giá. Vì ham lợi, các nhà doanh nghiệp không ngại đầu tư tiền bạc và công sức vào các công trình xây dựng hy vọng chúng sẽ mau mang lại nhiều lợi nhuận cho mình. Vì muốn dành huy chương vàng, các vận động viên thể thao đã dành nhiều thời giờ, sức lực và tiền của cho việc tập luyện thi đấu. Để có một tương lai tươi sáng hơn, các bạn sinh viên sẵn sàng chăm chỉ học hành để thi đậu đại học.

Còn chúng ta: để có được Nước Trời làm phần gia nghiệp, ta cần phải đầu tư những gì vào việc xây dựng Nước Trời ngay từ hôm nay? Ta cần phải phấn đấu để vượt qua những trở lực nào trong cuộc sống hiện tại?

3. SUY NIỆM

1) Tìm kiếm khôn ngoan đích thực?

Bài đọc I hôm nay đề cập đến sự khôn ngoan của vua Sa-lô-mon. Khi được Đức Chúa cho chọn, ông đã không xin Chúa ban cho sức khỏe, sự giàu có, danh vọng đời này, nhưng đã xin cho mình sự khôn ngoan. Lời cầu xin ấy đẹp lòng Chúa và Chúa đã ban cho ông không những có sự khôn ngoan tột bực và còn cho ông cả những điều ông không dám xin, là của cải vật chất gấp bội. Như vậy, vua Sa-lô-mon đã ý thức được giá trị của sự khôn ngoan và sử dụng khôn ngoan để chu toàn nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên là dân Do thái.

Có hai loại khôn ngoan: Một là sự khôn ngoan chân thực của Thiên Chúa và hai là khôn ngoan lọc lừa của thế gian. Một người có sự khôn ngoan chân thực sẽ luôn suy nghĩ nói năng và hành động theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su. Nhờ đó Lời Chúa ngày càng lớn lên và sinh hoa kết quả trong lòng họ. Trái lại, một người khôn ngoan lọc lừa sẽ luôn suy nghĩ nói năng và hành động theo tiêu chuẩn là “cái tôi” ích kỷ tự mãn của mình, chỉ biết tìm kiếm những gì mang lại lợi ích cho mình nên xem ra họ ngày một giàu có hơn, được thăng quan tiến chức hơn. Họ được người đời ca tụng là khôn ngoan nhưng lại bị Thiên Chúa coi là khờ dại, như lời Chúa phán với nhà phú hộ cả đời chỉ lo thu tích vàng bạc của cải cho mình như sau: “Đồ ngốc ! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,20-21). Trái lại, người khôn ngoan thực sự sẽ biết nhìn xa trông rộng để luôn làm mọi việc quy hướng về ơn cứu độ, vì : “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì?” (Mt 16,26). Người khôn ngoan của Thiên Chúa sẽ biết tiên liệu, lo cho tương lai sau này, nên họ sẽ vừa lo chu toàn các bổn phận trần thế, nhưng đồng thời cũng không quên tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời. Họ sẽ sống có lối sống siêu thoát của người môn đệ Đức Giê-su là: “Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về trần gian” (x. Ga 17,14-16).

2) Dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý

Đức Giê-su đã kể ra hai dụ ngôn về thái độ phải có để được vào Nước Trời: Một là thái độ khôn ngoan của một nông dân hằng ngày phải đi cày thuê kiếm sống. Một hôm anh ta tình cờ phát hiện ra một cái chum chứa nhiều vàng bạc châu báu trong thửa ruộng anh đang cày. Hai là thái đô của một nhà buôn nọ mua bán ngọc quý. Một hôm anh ta tình cờ gặp thấy một viên ngọc đẹp được bán với giá hời. Cả hai người này đều vui mừng, âm thầm bán gia sản lấy tiền mua bằng được thửa ruộng có chôn giấu kho báu, hoặc viên ngọc quý ấy.

Kho báu và viên ngọc quý trở thành động lực thôi thúc người ta sẵn sàng hy sinh những gì mình đang có để chiếm hữu được nó. Cũng vậy, các tín hữu tìm kiếm Nước Trời cũng phải sẵn sàng từ bỏ mọi giá trị trần gian và sống tốt lành noi gương Đức Giê-su để có Nước Trời làm của mình như lời Chúa Giê-su trong bài giảng “Tám Mối Phúc thật” (x. Mt 5,3-12).

3) Tinh thần siêu thoát của môn đệ Đức Giê-su

Nhiều người coi Nước Trời chỉ là một thứ kho báu thiêng liêng không thực tế, nên họ không muốn từ bỏ của cải đang chiếm hữu. Lời Chúa dạy hôm nay: Nước Trời mới thực sự là một kho báu có giá trị lớn lao tuyệt đối. Chỉ khi nào xác tín được như thế, chúng ta mới dám hy sinh từ bỏ của cải vật chất chỉ có giá trị tương đối ở đời này, để đổi lấy kho báu thiêng liêng có giá trị vĩnh hằng ở đời sau (x. Mt 6,10-20). Người thanh niên giàu có trong Tin Mừng muốn nên trọn lành và đã có thiện chí tuân giữ các giới răn ngay từ khi còn bé. Nhưng khi Đức Giê-su đòi anh phải bán các của cải đang có phân phát cho người nghèo, để đổi lấy một kho báu thiêng liêng trên trời, rồi đến theo làm môn đệ của Người, thì anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh không thể từ bỏ được gia sản (x Mc 10,17-22).

Thánh Phao lô dạy: “Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư. Trái lại, chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát” (1 Cr 9,25). Vàng bạc châu báu sau khi chủ nhân chết, sẽ về tay người khác. Huy chương vàng sau khi vận động viên qua đời sẽ chỉ còn giá trị như một vật lưu niệm. Trái lại, nếu người tín hữu biết từ bỏ của cải vật chất để chia sẻ cho người nghèo đói bênh tật… thì sau khi chết, họ sẽ có được Nước trời làm phần gia nghiệp giá trị vĩnh hằng.

Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ của Người phải có tinh thần siêu thoát thể hiện qua việc sẵn sàng từ bỏ gia sản vật chất và tình thân gia đình để đổi lấy Nước Trời gia trị gấp bội về mặt thiêng liêng tinh thần, nhất là được hưởng ơn cứu độ đời đời như lời Đức Giêsu: «Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau» (Mc 10,29-30).

4) Chúng ta phải làm gì?

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức giá trị đích thực của sự vật để không quá đề cao giá trị của cải vật chất nhưng biết dùng nó như phương tiện giúp chúng ta chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời và phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Lời Chúa cũng giúp chúng ta loại trừ thói kiêu căng tự mãn: muốn ăn trên ngồi trước tha nhân, để có một lối sống chan hòa yêu thương và khiêm tốn phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khó bệnh tật và bị bỏ rơi; Chúng ta cần đặt niềm tin cậy vào Thiên Chúa để tránh thói mê tín dị đoan; Luôn suy niệm về những biến cố xảy ra trong cuộc đời của mình dưới ánh sáng Lời Chúa, noi gương Đức Ma-ri-a xưa đã được Tin mừng ghi nhận: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19); Năng đọc và tìm hiểu về các giáo huấn của Hội thánh; Sẵn sàng hy sinh mọi sự vì lòng mến Chúa yêu người như thánh Phao-lô đã khẳng định : “Đối với tôi sống là Đức Kitô” (Pl 1,21); Luôn xác định lập trường đức tin như sau: Phụng sự một Thiên Chúa là Cha, Vâng lời một Thầy là Đức Giê-su (x. Mt 23,9) và trung thành tuyên xưng đức tin theo Hội thánh công giáo.

4. THẢO LUẬN

Đức Giê-su đòi các môn đệ từ bỏ mọi sự để theo làm tông đồ của Người. Còn các tín hữu hôm nay cần từ bỏ “cái tôi” cụ thể là những gì để trở thành tông đồ giáo dân phục vụ Nước Trời cho Chúa?

5. NGUYỆN CẦU

-LẠY Chúa GIÊ-SU. Chúng con thường bị các thế lực trần gian như sự giàu sang, danh vọng, sắc dục lôi cuốn và trói buộc. Chúng kéo ghì để ngăn cản chúng con nâng tâm hồn lên cao gặp gỡ Thiên Chúa là nguồn chân thiện mỹ và sau này đạt tới hạnh phúc đời đời.

-Lạy Chúa. Xin giải thoát chúng con khỏi những ham mê của cải vật chất trần gian, để tìm kiếm kho báu thiêng liêng trên trời. Xin cho chúng con luôn biết cởi mở để đi bước trước đến với tha nhân, quên mình phục vụ họ cách vô vụ lợi. Nhờ đó, chúng con chắc chắn sẽ tìm thấy kho báu đích thực là Nước Trơi đời sau.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

[Mục Lục]

Bài 27. Mua lấy Nước Trời
Lm Đa-minh Trần Đình Nhi

Chúng ta có lẽ ai cũng hiểu tại sao vua Sa-lô-môn lại được Chúa ban cho sự khôn ngoan. Là vì vua chỉ xin Chúa ban cho mình một điều thôi: một tâm hồn biết lắng nghe. Trước lời hứa của Chúa “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho”, Sa-lô-môn nghĩ đến tất cả những điều ai ai trên thế gian này cũng sẽ xin, nhưng ông lại can đảm từ bỏ hết, để chỉ xin Chúa một điều chẳng ai muốn xin cả! Giá trị đích thực phải là những gì được Chúa quý trọng, chứ không phải được đo lường bằng tiền bạc. Xác tín như vậy, chúng ta mới hiểu được hành vi chọn lựa “không giống ai” của người gặp được kho báu chôn giấu trong ruộng và người thương gia tìm được viên ngọc đẹp.

Cách sắp đặt của ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có thể giúp chúng ta nghĩ nhiều hơn đến trách nhiệm phải chiếm hữu Nước Trời bằng bất cứ giá nào, tuy các dụ ngôn vẫn đề cao giá trị vô song của Nước Trời. Trước hết, hai dụ ngôn đầu, kho báu chôn giấu trong ruộng và thương gia đi tìm ngọc đẹp, nói lên hai cách thức tìm thấy Nước Trời. Trong thời đất nước loạn lạc và hay bị xâm lăng, người dân thường tìm cách chôn giấu của cải. Có lẽ nơi người ta không ngờ nhất chính là đồng ruộng. Sau một thời gian dài, chủ nhân của những kho báu này hoặc đã chết hoặc không muốn trở về nữa nên kho báu bị quên lãng. Một ngày kia, người làm thuê nào đó đang khi cày ruộng thì khám phá ra kho báu, ông ta lấp đất lại, rồi về nhà “vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy”. Thái độ “vui mừng” và “bán đi tất cả” là những nét thật đẹp của người có cơ may tìm gặp được Nước Trời.

Nhưng trong dụ ngôn thứ hai, khám phá Nước Trời không phải chuyện tình cờ, mà là mục tiêu. Thương gia này không thiết tha điều gì khác ngoài chuyện “đi tìm ngọc đẹp”. Ông ta phải đi đây đó, nghe ngóng, đến tận nơi để thẩm định giá trị của viên ngọc, phải hao tốn tiền bạc và sức lực… Cũng thế, Nước Trời là đối tượng của một cuộc tìm kiếm vất vả. Chúng ta có thể nghĩ tới một người đi tìm Chúa. Giống như viên ngọc đẹp, Chúa hoặc Nước Trời là điều duy nhất họ tìm kiếm. Nhưng họ phải đánh đổi tất cả những gì mình có để chiếm được Chúa, như Chúa Giê-su đã mời gọi: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mác-cô 9:34).

Dụ ngôn chiếc lưới bắt cá không hẳn chỉ nói lên việc Thiên Chúa đón nhận người tốt vào thiên đàng và loại bỏ người xấu, tựa như chọn lựa cá tốt và loại trừ cá xấu trong cùng một mẻ lưới. Nhưng dụ ngôn cũng có thể nói lên sự chọn lựa của chính chúng ta giữa điều đẹp lòng Chúa và điều xấu. Chúng ta khác nào chiếc lưới bắt cả điều tốt lẫn điều xấu. Đời sống Ki-tô hữu luôn là một cuộc lựa chọn: giữa hai lãnh tụ, theo Chúa Giê-su Ki-tô hay theo Xa-tan, theo đuổi những giá trị Tin Mừng hay của cải tiền bạc, theo lối sống của Thần Khí Chúa Ki-tô hay lối sống của người đời và thế gian?

Sống sứ điệp Tin Mừng

Lời thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai hôm nay quả thực giúp chúng ta vững lòng “mua Nước Trời” bằng mọi giá. Ngài khẳng định: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rô-ma 8:28). Muốn yêu mến thì phải đi tìm, phải hiểu, phải biết. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã làm mọi sự, cả đến hành động “trao nộp Con Một” yêu dấu của Người cho chúng ta nữa. Nếu Chúa chỉ đòi nơi chúng ta một điều kiện duy nhất là yêu mến Người, thì tại sao chúng ta còn tiếc rẻ, còn suy tính hơn thiệt, cón bám víu lấy những gì là phù hoa mà buông ra những gì là vĩnh cửu? Đúng thế, Chúa hay Nước Trời là tất cả, là “gia nghiệp” chúng ta và cùng với Chúa Giê-su, chúng ta được thừa kế gia nghiệp ấy.

Hầu hết chúng ta không “tình cờ” khám phá ra Nước Trời, nhưng giống như thương gia tìm ngọc đẹp, mỗi ngày chúng ta khám phá thêm những nét đẹp của Nước Trời, những lối cư xử gương mẫu của Chúa Giê-su, những người bạn tốt đồng hành với chúng ta. Chúng ta khám phá trong Kinh Thánh, cầu nguyện và trong những tương quan với anh chị em. Tuy nhiên điều quan trọng nhất vẫn là chúng ta có dám “bán đi mọi sự” hay không?

 

[Mục Lục]


Trở lại      In      Số lần xem: 4097
Tin tức liên quan
Tin tức mới cập nhật
Video
Trở Lại Đi Con Ơi ! - Ca Đoàn Thánh Gia
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  20
 Hôm nay:  1813
 Hôm qua:  2895
 Tuần trước:  24007
 Tháng trước:  108657
 Tất cả:  12347858

Copyright @ 2013 Giáo Dân Tân Thái Sơn

Mọi ý kiến đóng góp và bài viết xin vui lòng gửi qua Email: Canhtanthaison@gmail.com

Thiết kế bởi webso.vn